Văn bản hợp nhất Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 - Phần chung và phần tội phạm cụ thể.
Sau đây là toàn văn văn bản hợp nhất Bộ Luật hình sự năm 2015 và phần sửa đổi bổ sung Bộ Luật hình sự năm 2017 (phần chung và phần tội phạm cụ thể)
Lưu ý:
- Phần ghi chữ màu đen là nội dung của Bộ Luật hình sự 2015, phần ghi chữ màu đỏ là nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 2017.
- Phần tội phạm cụ thể nằm ở cuối bài viết này.
Lưu ý:
- Phần ghi chữ màu đen là nội dung của Bộ Luật hình sự 2015, phần ghi chữ màu đỏ là nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 2017.
- Phần tội phạm cụ thể nằm ở cuối bài viết này.
Phần thứ nhất: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Chương I
ĐIỀU KHOẢN CƠ BẢN
Điều 1. Nhiệm vụ của Bộ luật hình sự
Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành
vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm.
Bộ luật này quy định về tội phạm
và hình phạt.
Điều 2. Cơ sở của trách nhiệm hình
sự
1. Chỉ người nào phạm một tội đã
được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Chỉ pháp nhân thương mại nào
phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách
nhiệm hình sự.
Điều 3. Nguyên tắc xử lý
1. Đối với người phạm tội:
a) Mọi hành vi phạm tội do người
thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng
pháp luật;
b) Mọi người phạm tội đều bình
đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo,
thành phần, địa vị xã hội;
c) Nghiêm trị người chủ mưu, cầm
đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để phạm tội;
d) Nghiêm trị người phạm tội dùng
thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng.
Khoan hồng đối với người tự thú, đầu
thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp
tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá
trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại gây ra;
đ) Đối với người lần đầu phạm tội
ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho
cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục;
e) Đối với người bị phạt tù thì
buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập
để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có đủ điều kiện do Bộ luật này quy
định, thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời
hạn có điều kiện;
g) Người đã chấp hành xong hình
phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng,
khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích.
2. Đối với pháp nhân thương mại
phạm tội:
a) Mọi hành vi phạm tội do pháp
nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công
minh theo đúng pháp luật;
b) Mọi pháp nhân thương mại phạm
tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành
phần kinh tế;
c) Nghiêm trị pháp nhân thương mại
phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng;
d) Khoan hồng đối với pháp nhân
thương mại tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội
phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa, bồi thường
thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.
Điều 4. Trách nhiệm phòng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm
1. Cơ quan Công an, Viện kiểm sát
nhân dân, Tòa án nhân dân và các cơ quan hữu quan khác có trách nhiệm thực hiện
đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ
các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, cá nhân phòng ngừa và đấu tranh chống
tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng.
2. Cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ
giáo dục những người thuộc quyền quản lý của mình nâng cao cảnh giác, ý thức
bảo vệ và tuân theo pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ
nghĩa; kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm
trong cơ quan, tổ chức của mình.
3. Mọi công dân có nghĩa vụ tích
cực tham gia phòng, chống tội phạm.
Chương II
HIỆU LỰC CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
Điều 5. Hiệu lực của Bộ luật hình
sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
1. Bộ luật hình sự được áp dụng
đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Quy định này cũng được áp dụng đối
với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu
biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của
Việt Nam.
2. Đối với người nước ngoài phạm
tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được
hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập
quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy
định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước
quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình
sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
Điều 6. Hiệu lực của Bộ luật hình
sự đối với những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
1. Công dân Việt Nam hoặc pháp
nhân thương mại Việt Nam có hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam mà Bộ luật này quy định là tội phạm, thì có thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật này.
Quy định này cũng được áp dụng đối
với người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam.
2. Người nước ngoài, pháp nhân
thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này
trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân
Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc
theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên.
3. Đối với hành vi phạm tội hoặc
hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển không mang quốc tịch
Việt Nam đang ở tại biển cả hoặc tại giới hạn vùng trời nằm ngoài lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì người phạm tội có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp điều ước quốc tế
mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định.
Điều 7. Hiệu lực của Bộ luật hình
sự về thời gian
1. Điều luật được áp dụng đối với
một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà
hành vi phạm tội được thực hiện.
2. Điều luật quy định một tội phạm
mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi
áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn
hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và quy định khác không có lợi cho người
phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước
khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
3. Điều luật xóa bỏ một tội phạm,
một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một
tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm
hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù
trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định khác có lợi cho người phạm
tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật
đó có hiệu lực thi hành.
Chương III
TỘI PHẠM
Điều 8. Khái niệm tội phạm
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
2. Những hành vi tuy có dấu hiệu
của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải
là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.
Điều 9. Phân loại tội phạm
1. Căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội
phạm được phân thành 04 loại sau đây:
a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội
phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của
khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền,
phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm
có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình
phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội
phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của
khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến
15 năm tù;
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là
tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao
nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15
năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
2. Tội phạm do pháp nhân thương mại
thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều này và quy định tương ứng
đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này.
Điều 10. Cố ý phạm tội
Cố ý phạm tội là phạm tội trong
những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và
mong muốn hậu quả xảy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có
thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Điều 11. Vô ý phạm tội
Vô ý phạm tội là phạm tội trong
những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội tuy thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu
quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
2. Người phạm tội không thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy
trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm
hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật
này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144,
150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286,
287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.
Điều 13. Phạm tội do dùng rượu,
bia hoặc chất kích thích mạnh khác
Người phạm tội trong tình trạng
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu,
bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 14. Chuẩn bị phạm tội
1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm,
sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội
phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham
gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a
khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này.
2. Người chuẩn bị phạm tội quy định
tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118,
119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của Bộ
luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này thì phải
chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 15. Phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực
hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý
muốn của người phạm tội.
Người phạm tội chưa đạt phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.
Điều 16. Tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã
thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội này.
Điều 17. Đồng phạm
1. Đồng phạm là trường hợp có hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
2. Phạm tội có tổ chức là hình
thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những
người cùng thực hiện tội phạm.
3. Người đồng phạm bao gồm người
tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Người thực hành là người trực tiếp
thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu,
cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động,
dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo điều
kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
4. Người đồng phạm không phải chịu
trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.
Điều 18. Che giấu tội phạm
1. Người nào không hứa hẹn trước,
nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết,
tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử
lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm
trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định.
2. Người che giấu tội phạm là ông,
bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không
phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường
hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng
khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật này.
Điều 19. Không tố giác tội phạm
1. Người nào biết rõ tội phạm đang
được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm quy định tại Điều
390 của Bộ luật này.
2. Người không tố giác là ông, bà,
cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không
phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường
hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội
khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Người không tố giác là người bào
chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này,
trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này
hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa
đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi
thực hiện việc bào chữa.
Chương IV
NHỮNG TRƯỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ
Điều 20. Sự kiện bất ngờ
Người thực hiện hành vi gây hậu
quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc
phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình
sự.
Điều 21. Tình trạng không có năng
lực trách nhiệm hình sự
Người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách
nhiệm hình sự.
Điều 22. Phòng vệ chính đáng
1. Phòng vệ chính đáng là hành vi
của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc
lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết
người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là
tội phạm.
2. Vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật
này.
Điều 23. Tình thế cấp thiết
1. Tình thế cấp thiết là tình thế
của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của
người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách
nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây thiệt hại trong tình
thế cấp thiết không phải là tội phạm.
2. Trong trường hợp thiệt hại gây
ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó
phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 24. Gây thiệt hại trong khi
bắt giữ người phạm tội
1. Hành vi của người để bắt giữ
người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử
dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội
phạm.
2. Trường hợp gây thiệt hại do sử
dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu
trách nhiệm hình sự.
Điều 25. Rủi ro trong nghiên cứu,
thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Hành vi gây ra thiệt hại trong khi
thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và
công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện
pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.
Người nào không áp dụng đúng quy
trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì
vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 26. Thi hành mệnh lệnh của
người chỉ huy hoặc của cấp trên
Người thực hiện hành vi gây thiệt
hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực
lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực
hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn
yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong
trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.
Quy định này không áp dụng đối với
các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 421, khoản 2 Điều 422 và khoản 2 Điều
423 của Bộ luật này.
Chương V
THỜI HIỆU TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ, MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
Điều 27. Thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự
1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người
phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự được quy định như sau:
a) 05 năm đối với tội phạm ít
nghiêm trọng;
b) 10 năm đối với tội phạm nghiêm
trọng;
c) 15 năm đối với tội phạm rất
nghiêm trọng;
d) 20 năm đối với tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng.
3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định
tại khoản 2 Điều này, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ
luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm
tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi
phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn quy định tại
khoản 2 Điều này, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy
nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.
Điều 28. Không áp dụng thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự
Không áp dụng thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 27 của Bộ luật này đối với các tội phạm
sau đây:
1. Các tội xâm phạm an ninh quốc
gia quy định tại Chương XIII của Bộ luật này;
2. Các tội phá hoại hòa bình,
chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI của Bộ luật
này;
3. Tội tham ô tài sản thuộc trường
hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353 của Bộ luật này; tội nhận hối lộ
thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 của Bộ luật này.
Điều 29. Căn cứ miễn trách nhiệm
hình sự
1. Người phạm tội được miễn trách
nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố
hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn
trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy
tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm
cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy
tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây
nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Trước khi hành vi phạm tội bị phát
giác, người phạm tội tự thú, khai
rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố
gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có
cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
3. Người thực hiện tội phạm nghiêm
trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọnggây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài
sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi
thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện
hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm
hình sự.
Chương VI
HÌNH PHẠT
Điều 30. Khái niệm hình phạt
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết
định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc
hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.
Điều 31. Mục đích của hình phạt
Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị
người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp
luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người,
pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống
tội phạm.
Điều 32. Các hình phạt đối với
người phạm tội
1. Hình phạt chính bao gồm:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền;
c) Cải tạo không giam giữ;
d) Trục xuất;
đ) Tù có thời hạn;
e) Tù chung thân;
g) Tử hình.
2. Hình phạt bổ sung bao gồm:
a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định;
b) Cấm cư trú;
c) Quản chế;
d) Tước một số quyền công dân;
đ) Tịch thu tài sản;
e) Phạt tiền, khi không áp dụng là
hình phạt chính;
g) Trục xuất, khi không áp dụng là
hình phạt chính.
3. Đối với mỗi tội phạm, người
phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một
số hình phạt bổ sung.
Điều 33. Các hình phạt đối với
pháp nhân thương mại phạm tội
1. Hình phạt chính bao gồm:
a) Phạt tiền;
b) Đình chỉ hoạt động có thời hạn;
c) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
2. Hình phạt bổ sung bao gồm:
a) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động
trong một số lĩnh vực nhất định;
b) Cấm huy động vốn;
c) Phạt tiền, khi không áp dụng là
hình phạt chính.
3. Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân
thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một
hoặc một số hình phạt bổ sung.
Điều 34. Cảnh cáo
Cảnh cáo được áp dụng đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến
mức miễn hình phạt.
Điều 35. Phạt tiền
1. Phạt tiền được áp dụng là hình
phạt chính đối với các trường hợp sau đây:
a) Người phạm tội ít nghiêm trọng,
phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định;
b) Người phạm tội rất nghiêm trọng
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công
cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
2. Hình phạt tiền được áp dụng là
hình phạt bổ sung đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội
phạm khác do Bộ luật này quy định.
3. Mức tiền phạt được quyết định
căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến
tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả, nhưng không được
thấp hơn 1.000.000 đồng.
4. Hình phạt tiền đối với pháp
nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 77 của Bộ luật này.
Điều 36. Cải tạo không giam giữ
1. Cải tạo không giam giữ được áp
dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội
nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có
nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội
khỏi xã hội.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ,
tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình
phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo
không giam giữ.
2. Tòa án giao người bị phạt cải
tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người
bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp
xã trong việc giám sát, giáo dục người đó.
3. Trong thời gian chấp hành án,
người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo
không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà
nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng. Trong trường hợp đặc
biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do
trong bản án.
Không khấu trừ thu nhập đối với
người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.
4. Trường hợp người bị phạt cải
tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp
hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng
đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Thời gian lao động phục vụ cộng
đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.
Không áp dụng biện pháp lao động
phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi,
người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật
đặc biệt nặng.
Người bị kết án cải tạo không giam
giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.
Điều 37. Trục xuất
Trục xuất là buộc người nước ngoài
bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trục xuất được Tòa án áp dụng là
hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể.
Điều 38. Tù có thời hạn
1. Tù có thời hạn là buộc người bị
kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất
định.
Tù có thời hạn đối với người phạm
một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm.
Thời gian tạm giữ, tạm giam được
trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01
ngày tù.
2. Không áp dụng hình phạt tù có
thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư
trú rõ ràng.
Điều 39. Tù chung thân
Tù chung thân là hình phạt tù
không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng
chưa đến mức bị xử phạt tử hình.
Không áp dụng hình phạt tù chung
thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Điều 40. Tử hình
1. Tử hình là hình phạt đặc biệt
chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm
các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm
về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật
này quy định.
2. Không áp dụng hình phạt tử hình
đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.
3. Không thi hành án tử hình đối
với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang
nuôi con dưới 36 tháng tuổi;
b) Người đủ 75 tuổi trở lên;
c) Người bị kết án tử hình về tội
tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít
nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan
chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.
4. Trong trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều này hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình
phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân.
Điều 41. Cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết
án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gây nguy hại
cho xã hội.
Thời hạn cấm là từ 01 năm đến 05
năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực
pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ
hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.
Điều 42. Cấm cư trú
Cấm cư trú là buộc người bị kết án
phạt tù không được tạm trú hoặc thường trú ở một số địa phương nhất định.
Thời hạn cấm cư trú là từ 01 năm
đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
Điều 43. Quản chế
Quản chế là buộc người bị kết án
phạt tù phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định
dưới sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương. Trong thời
gian quản chế, người bị kết án không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước một
số quyền công dân theo quy định tại Điều 44 của Bộ luật này và bị cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định.
Quản chế được áp dụng đối với
người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, người tái phạm nguy hiểm hoặc trong
những trường hợp khác do Bộ luật này quy định.
Thời hạn quản chế là từ 01 năm đến
05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
Điều 44. Tước một số quyền công
dân
1. Công dân Việt Nam bị kết án
phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm khác trong những trường
hợp do Bộ luật này quy định, thì bị tước một hoặc một số quyền công dân sau
đây:
a) Quyền ứng cử đại biểu cơ quan
quyền lực Nhà nước;
b) Quyền làm việc trong các cơ
quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân.
2. Thời hạn tước một số quyền công
dân là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc kể từ
ngày bản án có hiệu lực pháp luật trong trường hợp người bị kết án được hưởng
án treo.
Điều 45. Tịch thu tài sản
Tịch thu tài sản là tước một phần
hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà
nước.
Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng
đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma
túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn
để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống.
Chương VII
CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP
Điều 46. Các biện pháp tư pháp
1. Biện pháp tư pháp đối với người
phạm tội bao gồm:
a) Tịch thu vật, tiền trực tiếp
liên quan đến tội phạm;
b) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc
bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi;
c) Bắt buộc chữa bệnh.
2. Biện pháp tư pháp đối với pháp
nhân thương mại phạm tội bao gồm:
a) Tịch thu vật, tiền trực tiếp
liên quan đến tội phạm;
b) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc
bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi;
c) Khôi phục lại tình trạng ban
đầu;
d) Thực hiện một số biện pháp nhằm
khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.
Điều 47. Tịch thu vật, tiền trực
tiếp liên quan đến tội phạm
1. Việc tịch thu sung vào ngân
sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy được áp dụng đối với:
a) Công cụ, phương tiện dùng vào
việc phạm tội;
b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc
do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm
tội;
c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.
2. Đối với vật, tiền bị người phạm
tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở
hữu hoặc người quản lý hợp pháp.
3. Vật, tiền là tài sản của người
khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc
thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu.
Điều 48. Trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi
1. Người phạm tội phải trả lại tài
sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.
2. Trong trường hợp phạm tội gây
thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất,
công khai xin lỗi người bị hại.
Điều 49. Bắt buộc chữa bệnh
1. Đối với người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại Điều 21 của Bộ luật này,
Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp
y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt
buộc chữa bệnh.
2. Đối với người phạm tội trong
khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới
mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn
cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể
quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau
khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Đối với người đang chấp hành
hình phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y
tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để
bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, nếu không có lý do khác để miễn chấp
hành hình phạt, thì người đó phải tiếp tục chấp hành hình phạt.
Thời gian bắt buộc chữa bệnh được
trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Chương VIII
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
Mục 1. QUY ĐỊNH CHUNG VỀ QUYẾT
ĐỊNH HÌNH PHẠT
Điều 50. Căn cứ quyết định hình
phạt
1. Khi quyết định hình phạt, Tòa
án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm
nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
2. Khi quyết định áp dụng hình
phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình
hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội.
Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự
1. Các tình tiết sau đây là tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn
hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa
chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt
quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt
quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị
kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt
hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe
dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị
hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có
thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70
tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết
tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh
bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác
với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình
giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công
chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có
thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công
với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa
án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi
rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được
Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là
tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Điều 52. Các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự
1. Chỉ các tình tiết sau đây mới
là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
phạm tội;
d) Phạm tội có tính chất côn đồ;
đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;
e) Cố tình thực hiện tội phạm đến
cùng;
g) Phạm tội 02 lần trở lên;
h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy
hiểm;
i) Phạm tội đối với người dưới 16
tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên;
k) Phạm tội đối với người ở trong
tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt
nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật
chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh,
tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của
xã hội để phạm tội;
m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo
quyệt hoặc tàn ác để phạm tội;
n) Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây
nguy hại cho nhiều người để phạm tội;
o) Xúi giục người dưới 18 tuổi
phạm tội;
p) Có hành động xảo quyệt hoặc
hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
2. Các tình tiết đã được Bộ luật
này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi
là tình tiết tăng nặng.
Điều 53. Tái phạm, tái phạm nguy
hiểm
1. Tái phạm là trường hợp đã bị
kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc
thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây được
coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà
lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án
tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Mục 2. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG
CÁC TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ
Điều 54. Quyết định hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
1. Tòa án có thể quyết định một
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong
khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai
tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
2. Tòa án có thể quyết định một
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt
buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người
phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không
đáng kể.
3. Trong trường hợp có đủ các điều
kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một
khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án
có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển
sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được
ghi rõ trong bản án.
Điều 55. Quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội
Khi xét xử cùng 01 lần một người
phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình
phạt theo quy định sau đây:
1. Đối với hình phạt chính:
a) Nếu các hình phạt đã tuyên cùng
là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó
được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm
đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời
hạn;
b) Nếu các hình phạt đã tuyên là
cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ
được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ
được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy
định tại điểm a khoản 1 Điều này;
c) Nếu hình phạt nặng nhất trong
số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung
thân;
d) Nếu hình phạt nặng nhất trong
số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình;
đ) Phạt tiền không tổng hợp với
các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt
chung;
e) Trục xuất không tổng hợp với
các loại hình phạt khác;
2. Đối với hình phạt bổ sung:
a) Nếu các hình phạt đã tuyên là
cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy
định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền
phạt được cộng lại thành hình phạt chung;
b) Nếu các hình phạt đã tuyên là
khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.
Điều 56. Tổng hợp hình phạt của
nhiều bản án
1. Trong trường hợp một người đang
phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án
này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết
định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.
Thời gian đã chấp hành hình phạt
của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.
2. Khi xét xử một người đang phải
chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định
hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành
của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của
Bộ luật này.
3. Trong trường hợp một người phải
chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án
chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp
hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Điều 57. Quyết định hình phạt
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm
tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của
Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác
khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.
2. Đối với trường hợp chuẩn bị
phạm tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định
trong các điều luật cụ thể.
3. Đối với trường hợp phạm tội
chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung
thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời
hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.
Điều 58. Quyết định hình phạt
trong trường hợp đồng phạm
Khi quyết định hình phạt đối với
những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất
và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng
hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng
đối với người đó.
Điều 59. Miễn hình phạt
Người phạm tội có thể được miễn
hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ
luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách
nhiệm hình sự.
Chương IX
THỜI HIỆU THI HÀNH BẢN ÁN, MIỄN
CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT, GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT
Điều 60. Thời hiệu thi hành bản án
1. Thời hiệu thi hành bản án hình
sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án,
pháp nhân thương mại bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên.
2. Thời hiệu thi hành bản án hình
sự đối với người bị kết án được quy định như sau:
a) 05 năm đối với các trường hợp
xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt tù từ 03 năm trở xuống;
b) 10 năm đối với các trường hợp
xử phạt tù từ trên 03 năm đến 15 năm;
c) 15 năm đối với các trường hợp
xử phạt tù từ trên 15 năm đến 30 năm;
d) 20 năm đối với các trường hợp
xử phạt tù chung thân hoặc tử hình.
3. Thời hiệu thi hành bản án hình
sự đối với pháp nhân thương mại là 05 năm.
4. Thời hiệu thi hành bản án hình
sự được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu trong thời hạn quy định
tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, người bị kết án, pháp nhân thương mại bị kết
án lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì thời hiệu tính lại kể từ ngày thực
hiện hành vi phạm tội mới.
5. Trong thời hạn quy định tại
khoản 2 Điều này, người bị kết án cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy
nã, thì thời hiệu tính lại kể từ ngày người đó ra trình diện hoặc bị bắt giữ.
Điều 61. Không áp
dụng thời hiệu thi hành bản án
Không áp dụng thời hiệu thi hành bản
án đối với các tội quy định tại Chương XIII, Chương XXVI, khoản 3 và khoản 4
Điều 353, khoản 3 và khoản 4 Điều 354 của Bộ luật này.
Điều 62. Miễn chấp hành hình phạt
1. Người bị kết án được miễn chấp
hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.
2. Người bị kết án cải tạo không
giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành
hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Sau khi bị kết án đã lập công;
b) Mắc bệnh hiểm nghèo;
c) Chấp hành tốt pháp luật, có
hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm
cho xã hội nữa.
3. Người bị kết án phạt tù có thời
hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình phạt nếu đã lập công lớn hoặc mắc bệnh
hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình
phạt.
4. Người bị kết án phạt tù đến 03
năm, đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, nếu trong thời gian được tạm
đình chỉ mà đã lập công hoặc chấp hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc
biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo
đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành
phần hình phạt còn lại.
5. Người bị kết án phạt tiền đã
tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế
đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà
không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì
theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp
hành phần tiền phạt còn lại.
6. Người bị phạt cấm cư trú hoặc
quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt,
thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện nơi người đó chấp
hành hình phạt, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
7. Người được miễn chấp hành hình
phạt theo quy định tại Điều này vẫn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dân sự
do Tòa án tuyên trong bản án.
Điều 63. Giảm mức hình phạt đã
tuyên
1. Người bị kết án cải tạo không
giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình
phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một
phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm
quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Thời gian đã chấp hành hình phạt
để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo
không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân.
2. Một người có thể được giảm
nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã
tuyên.
Người bị kết án tù chung thân, lần
đầu được giảm xuống 30 năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời
hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm.
3. Trường hợp người bị kết án về
nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm
lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và dù được giảm
nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm.
4. Đối với người đã được giảm một
phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý,
thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được một phần hai
mức hình phạt chung.
5. Đối với người đã được giảm một
phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người
đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc trường hợp hình phạt
chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực hiện theo quy định tại khoản 3
Điều này.
6. Đối với người bị kết án tử hình
được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b
hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này thì thời gian đã chấp hành hình
phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải
bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.
Điều 64. Giảm thời hạn chấp hành
hình phạt trong trường hợp đặc biệt
Người bị kết án có lý do đáng được
khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì
Tòa án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với thời
gian và mức quy định tại Điều 63 của Bộ luật này.
Điều 65. Án treo
1. Khi xử phạt tù không quá 03
năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét
thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và
ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ
trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
2. Trong thời gian thử thách, Tòa
án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc
hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình
người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa
phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
3. Tòa án có thể quyết định áp
dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp
dụng có quy định hình phạt này.
4. Người được hưởng án treo đã
chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề
nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể
quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
5. Trong thời gian thử thách, nếu
người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành
án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp
hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi
phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước
và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật
này.
Điều 66. Tha tù trước thời hạn có
điều kiện
1. Người đang chấp hành án phạt tù
về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng mà đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù hoặc người đang chấp
hành án phạt tù về tội phạm ít nghiêm trọng có thể được tha tù trước thời hạn
khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Phạm tội lần đầu;
b) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải
tạo tốt;
c) Có nơi cư trú rõ ràng;
d) Đã chấp hành xong hình phạt bổ
sung là hình phạt tiền, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và án phí;
đ) Đã chấp hành được ít nhất là một
phần hai mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 15 năm đối với trường hợp bị
phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn.
Trường hợp người phạm tội là người
có công với cách mạng, thân nhân của người có công với cách mạng, người đủ 70
tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang
nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì phải chấp hành được ít nhất là một phần ba mức
phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 12 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung
thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn;
e) Không thuộc một trong các trường
hợp phạm tội quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Không áp dụng quy định của Điều
này đối với người bị kết án thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người bị kết án về một trong các
tội quy định tại Chương XIII, Chương XXVI, Điều 299 của Bộ luật này; người bị
kết án 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương XIV của Bộ
luật này do cố ý hoặc người bị kết án 07 năm tù trở lên đối với một trong các
tội quy định tại các điều 168, 169, 248, 251 và 252 của Bộ luật này;
b) Người bị kết án tử hình được ân
giảm hoặc thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này.
3. Theo đề nghị của cơ quan thi
hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có điều
kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện
phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng
thời gian còn lại của hình phạt tù.
4. Người được tha tù trước thời
hạn có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm
hành chính 02 lần trở lên trong thời gian thử thách, thì Tòa án có thể hủy bỏ
quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải
chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành.
Nếu người đó thực hiện hành vi
phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình
phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án
trước theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
5. Người được tha tù trước thời
hạn có điều kiện đã chấp hành được ít nhất là một phần hai thời gian thử thách
và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm
quyền, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
Điều 67. Hoãn chấp hành hình phạt
tù
1. Người bị xử phạt tù có thể được
hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:
a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho
đến khi sức khỏe được hồi phục;
b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi
con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;
c) Là người lao động duy nhất
trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn
đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội
xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng;
d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm
trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.
2. Trong thời gian được hoãn chấp
hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành
vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và
tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
Điều 68. Tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù
1. Người đang chấp hành hình phạt
tù mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 67 của Bộ luật
này, thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
2. Thời gian tạm đình chỉ không
được tính vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
Chương X
XÓA ÁN TÍCH
Điều 69. Xóa án tích
1. Người bị kết án được xóa án
tích theo quy định tại các điều từ Điều 70 đến Điều 73 của Bộ luật này.
Người được xóa án tích coi như
chưa bị kết án.
2. Người bị kết án do lỗi vô ý về
tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt
không bị coi là có án tích.
Điều 70. Đương nhiên được xóa án
tích
1. Đương nhiên được xóa án tích
được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương
XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính,
thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các
điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
2. Người bị kết án đương nhiên
được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian
thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định
khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a) 01 năm trong trường hợp bị phạt
cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;
b) 02 năm trong trong trường hợp
bị phạt tù đến 05 năm;
c) 03 năm trong trường hợp bị phạt
tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
d) 05 năm trong trường hợp bị phạt
tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Trường hợp người bị kết án đang
chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn
phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì
thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành
xong hình phạt bổ sung.
3. Người bị kết án đương nhiên
được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực
hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này.
4. Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu
lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của
người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không
có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này.
Điều 71. Xóa án tích theo quyết định
của Tòa án
1. Xóa án tích theo quyết định của
Tòa án được áp dụng đối với người bị kết án về một trong các tội quy định
tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này. Tòa án quyết định việc xóa án
tích đối với người bị kết án căn cứ vào tính chất của tội phạm đã thực hiện,
thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án và các điều
kiện quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Người bị kết án được Tòa án
quyết định việc xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính
hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt
bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi
phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a) 01 năm trong trường hợp bị phạt
cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;
b) 03 năm trong trường hợp bị phạt
tù đến 05 năm;
c) 05 năm trong trường hợp bị phạt
tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
d) 07 năm trong trường hợp bị phạt
tù trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Trường hợp người bị kết án
đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, tước một số
quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định
tại điểm a, điểm b khoản này thì Tòa án quyết định việc xóa án tích từ
khi người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
3. Người bị Tòa án bác đơn xin xóa án
tích lần đầu, thì sau 01 năm kể từ ngày bị Tòa án bác đơn mới được xin xóa án
tích; nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi, thì sau 02 năm kể từ ngày bị Tòa án
bác đơn mới được xin xóa án tích.
Điều 72. Xóa án tích trong trường
hợp đặc biệt
Trong trường hợp người bị kết án
có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi
người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú đề nghị, thì
Tòa án quyết định việc xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một
phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của Bộ luật
này.
Điều 73. Cách tính thời hạn để xóa
án tích
1. Thời hạn để xóa án tích quy
định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật này căn cứ vào hình phạt chính đã
tuyên.
2. Người bị kết án chưa được xóa
án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có
hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp
hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc
từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành.
3. Người bị kết án trong trường
hợp phạm nhiều tội mà có tội thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích, có
tội thuộc trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án thì căn cứ vào thời
hạn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này Tòa án quyết định việc xóa án tích đối
với người đó.
4. Người được miễn chấp hành phần
hình phạt còn lại cũng được coi như đã chấp hành xong hình phạt.
Chương XI
NHỮNG QUY ĐỊNH ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN
THƯƠNG MẠI PHẠM TỘI
Điều 74. Áp dụng quy định của Bộ
luật hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội
Pháp nhân thương mại phạm tội phải
chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác
của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.
Điều 75. Điều kiện chịu trách
nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
1. Pháp nhân thương mại chỉ phải
chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Hành vi phạm tội được thực hiện
nhân danh pháp nhân thương mại;
b) Hành vi phạm tội được thực hiện
vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
c) Hành vi phạm tội được thực hiện
có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;
d) Chưa hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này.
2. Việc pháp nhân thương mại chịu
trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân.
Điều 76. Phạm vi chịu trách nhiệm
hình sự của pháp nhân thương mại
Pháp nhân thương mại phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại một trong các điều 188, 189, 190, 191,
192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227,
232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300 và 324 của Bộ luật
này.
Điều 77. Phạt tiền
1. Phạt tiền được áp dụng là hình
phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
2. Mức tiền phạt được quyết định
căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài
chính của pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không
được thấp hơn 50.000.000 đồng.
Điều 78. Đình chỉ hoạt động có
thời hạn
1. Đình chỉ hoạt động có thời hạn
là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực
mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con
người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có
khả năng khắc phục trên thực tế.
2. Thời hạn đình chỉ hoạt động từ
06 tháng đến 03 năm.
Điều 79. Đình chỉ hoạt động vĩnh
viễn
1. Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là
chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà
pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt
hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả gây
ra.
2. Pháp nhân thương mại được thành
lập chỉ để thực hiện tội phạm thì bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động.
Điều 80. Cấm kinh doanh, cấm hoạt
động trong một số lĩnh vực nhất định
1. Cấm kinh doanh, cấm hoạt động
trong một số lĩnh vực nhất định được áp dụng khi xét thấy nếu để pháp nhân
thương mại bị kết án tiếp tục kinh doanh hoặc hoạt động trong lĩnh vực đó, thì
có thể gây nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người hoặc cho xã hội.
2. Tòa án quyết định lĩnh vực cụ
thể bị cấm kinh doanh hoặc cấm hoạt động.
3. Thời hạn cấm kinh doanh, cấm
hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định là từ 01 năm đến 03 năm, kể từ ngày
bản án có hiệu lực pháp luật.
Điều 81. Cấm huy động vốn
1. Cấm huy động vốn được áp dụng
khi xét thấy nếu để pháp nhân thương mại bị kết án huy động vốn thì có nguy cơ
tiếp tục phạm tội.
2. Các hình thức cấm huy động vốn
bao gồm:
a) Cấm vay vốn của tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc quỹ đầu tư;
b) Cấm phát hành, chào bán chứng
khoán;
c) Cấm huy động vốn khách hàng;
d) Cấm liên doanh, liên kết trong
và ngoài nước;
đ) Cấm hình thành quỹ tín thác bất
động sản.
3. Tòa án quyết định áp dụng một
hoặc một số hình thức cấm huy động vốn quy định tại khoản 2 Điều này.
4. Thời hạn cấm huy động vốn là từ
01 năm đến 03 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
Điều 82. Các biện pháp tư pháp áp
dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội
1. Tòa án có thể quyết định áp
dụng các biện tư pháp sau đây đối với pháp nhân thương mại phạm tội:
a) Các biện pháp tư pháp quy định
tại Điều 47 và Điều 48 của Bộ luật này;
b) Buộc khôi phục lại tình trạng
ban đầu;
c) Buộc thực hiện một số biện pháp
nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.
2. Tòa án có thể quyết định áp
dụng biện pháp tư pháp buộc pháp nhân thương mại phạm tội phải khôi phục lại
tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do hành vi phạm phạm tội của mình gây ra.
3. Căn cứ vào từng trường hợp phạm
tội cụ thể, Tòa án có thể quyết định buộc pháp nhân thương mại phạm tội phải
thực hiện một hoặc một số biện pháp sau đây nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả
của tội phạm:
a) Buộc tháo dỡ công trình, phần
công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;
b) Buộc khắc phục tình trạng ô
nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh;
c) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương
tiện được đưa vào lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhập khẩu
trái với quy định của pháp luật hoặc được tạm nhập, tái xuất nhưng không tái
xuất theo đúng quy định của pháp luật; hàng hóa nhập khẩu, quá cảnh xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa giả mạo quyền sở hữu trí tuệ, phương tiện,
nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh
hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ yếu tố vi phạm;
d) Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật
phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa
phẩm có nội dung độc hại hoặc tang vật khác thuộc đối tượng bị tiêu hủy theo
quy định của pháp luật;
đ) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm
trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm;
e) Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa
vi phạm đang lưu thông trên thị trường.
Điều 83. Căn cứ quyết định hình
phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn
cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại và
các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp
nhân thương mại.
Điều 84. Các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại
1. Các tình tiết sau đây là tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt
tác hại của tội phạm;
b) Tự nguyện sửa chữa, bồi thường
thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt
hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
d) Tích cực hợp tác với cơ quan có
trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ
án;
đ) Có nhiều đóng góp trong việc
thực hiện chính sách xã hội.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa
án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do
giảm nhẹ trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được
Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là
tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Điều 85. Các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại
1. Chỉ các tình tiết sau đây mới
là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
a) Câu kết với pháp nhân thương
mại khác để phạm tội;
b) Cố ý thực hiện tội phạm đến
cùng;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tái phạm hoặc tái phạm nguy
hiểm;
đ) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh,
tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của
xã hội để phạm tội;
e) Dùng thủ đoạn tinh vi để phạm
tội hoặc nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.
2. Các tình tiết đã được Bộ luật
này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi
là tình tiết tăng nặng.
Điều 86. Quyết định hình phạt
trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm nhiều tội
Khi xét xử cùng 01 lần pháp nhân
thương mại phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng
hợp hình phạt theo quy định sau đây:
1. Đối với hình phạt chính:
a) Nếu các hình phạt đã tuyên cùng
là phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung. Hình
phạt tiền không tổng hợp với các hình phạt khác;
b) Nếu các hình phạt đã tuyên là
đình chỉ hoạt động có thời hạn và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong cùng lĩnh
vực hoặc hình phạt đã tuyên cùng là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong cùng
lĩnh vực thì hình phạt chung là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong lĩnh vực đó;
c) Nếu các hình phạt đã tuyên là
đình chỉ hoạt động có thời hạn trong cùng lĩnh vực thì được tổng hợp thành hình
phạt chung nhưng không vượt quá 04 năm;
d) Nếu trong số các hình phạt đã
tuyên có hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn thuộc trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 79 của Bộ luật này thì hình phạt chung là đình chỉ hoạt động vĩnh
viễn đối với toàn bộ hoạt động;
đ) Nếu các hình phạt đã tuyên là
đình chỉ hoạt động có thời hạn trong các lĩnh vực khác nhau hoặc đình chỉ hoạt
động vĩnh viễn trong các lĩnh vực khác nhau hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn
và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong các lĩnh vực khác nhau thì không tổng
hợp.
2. Đối với hình phạt bổ sung:
a) Nếu các hình phạt đã tuyên là
cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy
định đối với hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền được
cộng lại thành hình phạt chung;
b) Nếu các hình phạt đã tuyên là
khác loại thì pháp nhân thương mại bị kết án phải chấp hành tất cả các hình
phạt đã tuyên.
Điều 87. Tổng hợp hình phạt của
nhiều bản án
1. Trường hợp pháp nhân thương mại
đang chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án
này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết
định hình phạt chung theo quy định tại Điều 86 của Bộ luật này.
Thời gian đã chấp hành hình phạt
của bản án trước về đình chỉ hoạt động có thời hạn, cấm kinh doanh, cấm hoạt
động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn được trừ vào thời
hạn chấp hành hình phạt chung.
2. Khi xét xử một pháp nhân thương
mại đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa
án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt
chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định
tại Điều 86 của Bộ luật này.
3. Trong trường hợp một pháp nhân
thương mại phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình
phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra
quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản
2 Điều này.
Điều 88. Miễn hình phạt
Pháp nhân thương mại phạm tội có
thể được miễn hình phạt khi đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn
bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Điều 89. Xóa án tích
Pháp nhân thương mại bị kết án
đương nhiên được xóa án tích nếu trong thời hạn 02 năm kể từ khi chấp hành xong
hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án hoặc từ khi
hết thời hiệu thi hành bản án mà pháp nhân thương mại không thực hiện hành vi
phạm tội mới.
Chương XII
NHỮNG QUY ĐỊNH ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI
18 TUỔI PHẠM TỘI
Mục 1. QUY ĐỊNH CHUNG VỀ XỬ LÝ
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
Điều 90. Áp dụng Bộ luật hình sự
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này;
theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định
của Chương này.
Điều 91. Nguyên tắc xử lý đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
1. Việc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm
mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành
công dân có ích cho xã hội.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm
tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
2. Người dưới 18 tuổi phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự
nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều
29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng
một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm
quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật
này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ
luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151,
168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;
c) Người dưới 18 tuổi là người
đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
3. Việc truy cứu trách nhiệm hình
sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ
vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
4. Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách
nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc
áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này
không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.
5. Không xử phạt tù chung thân
hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
6. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù
có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và
biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án
cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối
với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn
nhất.
Không áp dụng hình phạt bổ sung
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
7. Án đã tuyên đối với người chưa
đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy
hiểm.
Mục 2. CÁC BIỆN PHÁP GIÁM SÁT,
GIÁO DỤC ÁP DỤNG TRONG TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
Điều 92. Điều kiện áp dụng
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp khiển
trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn,
nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với
việc áp dụng một trong các biện pháp này.
Điều 93. Khiển trách
1. Khiển trách được áp dụng
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây
nhằm giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả gây ra đối với
cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định
tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này;
b) Người dưới 18 tuổi là người
đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
2. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
hoặc Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khiển trách. Việc khiển trách đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại
diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi.
3. Người bị khiển trách phải thực
hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Tuân thủ pháp luật, nội quy,
quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc;
b) Trình diện trước cơ quan có
thẩm quyền khi được yêu cầu;
c) Tham gia các chương trình học
tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.
4. Tùy từng trường hợp cụ thể cơ
quan có thẩm quyền ấn định thời gian thực hiện các nghĩa vụ quy định tại điểm b
và điểm c khoản 3 Điều này từ 03 tháng đến 01 năm.
Điều 94. Hòa giải tại cộng đồng
1. Hòa giải tại cộng đồng được
áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc
trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2
Điều 91 của Bộ luật này.
2. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
hoặc Tòa án phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức việc hòa giải tại cộng
đồng khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại đã tự
nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.
3. Người được áp dụng biện pháp
hòa giải tại cộng đồng phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Xin lỗi người bị hại và bồi
thường thiệt hại;
b) Nghĩa vụ quy định tại khoản 3
Điều 93 của Bộ luật này.
4. Tùy từng trường hợp cụ thể, cơ
quan có thẩm quyền ấn định thời điểm xin lỗi, thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại quy định tại điểm a khoản 3 Điều này và nghĩa vụ quy định tại
điểm b và điểm c khoản 3 Điều 93 của Bộ luật này từ 03 tháng đến 01 năm.
Điều 95. Giáo dục tại xã, phường,
thị trấn
1. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
hoặc Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 01
năm đến 02 năm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc
trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm
b khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này.
2. Người được Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát hoặc Tòa án giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức giám sát,
giáo dục phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về
học tập, lao động;
b) Chịu sự giám sát, giáo dục của
gia đình, xã, phường, thị trấn;
c) Không đi khỏi nơi cư trú khi
không được phép;
d) Các nghĩa vụ theo quy định tại
khoản 3 Điều 93 của Bộ luật này.
3. Nếu người được giáo dục tại xã,
phường, thị trấn đã chấp hành một phần hai thời hạn và có nhiều tiến bộ thì
theo đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao trách nhiệm giám sát, giáo
dục, cơ quan đã áp dụng biện pháp này có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo
dục tại xã, phường, thị trấn.
Mục 3. BIỆN PHÁP TƯ PHÁP GIÁO DỤC
TẠI TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
Điều 96. Giáo dục tại trường giáo
dưỡng
1. Tòa án có thể áp dụng biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng từ 01 năm đến 02 năm đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân
và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có
kỷ luật chặt chẽ.
2. Người được giáo dục tại trường
giáo dưỡng phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, học nghề, lao động,
sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường.
Điều 97. Chấm dứt trước thời hạn
biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
Nếu người được giáo dục tại trường
giáo dưỡng đã chấp hành một phần hai thời hạn, có nhiều tiến bộ, thì theo đề
nghị của trường giáo dưỡng được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, Tòa án có
thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Mục 4. HÌNH PHẠT
Điều 98. Các hình phạt được áp
dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bị
áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm:
1. Cảnh cáo.
2. Phạt tiền.
3. Cải tạo không giam giữ.
4. Tù có thời hạn.
Điều 99. Phạt tiền
Phạt tiền được áp dụng là hình
phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu
nhập hoặc có tài sản riêng.
Mức tiền phạt đối với người từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều
luật quy định.
Điều 100. Cải tạo không giam giữ
1. Hình phạt cải tạo không giam
giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội
rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm
trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm
trọng.
2. Khi áp dụng hình phạt cải tạo
không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập
của người đó.
Thời hạn cải tạo không giam giữ
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều
luật quy định.
Điều 101. Tù có thời hạn
Mức phạt tù có thời hạn áp dụng
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau:
1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù
chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18
năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá
ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù
chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12
năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá
một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
Mục 5. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT, TỔNG
HỢP HÌNH PHẠT, MIỄN GIẢM HÌNH PHẠT, XÓA ÁN TÍCH
Điều 102. Quyết định hình phạt
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
1. Tòa án quyết định hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi trong trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa
đạt theo nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 57 của Bộ luật này.
2. Mức hình phạt cao nhất đối với
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một phần ba
mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm
tội trong điều luật được áp dụng.
Mức hình phạt cao nhất đối với
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một phần hai
mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm
tội trong điều luật được áp dụng.
3. Mức hình phạt cao nhất áp dụng
đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một
phần ba mức hình phạt quy định tại Điều 100 và Điều 101 của Bộ luật này.
Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối
với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần
hai mức hình phạt quy định tại các Điều 99, 100 và 101 của Bộ luật này.
Điều 103. Tổng hợp hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội
1. Khi xét xử cùng một lần người
dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và
tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.
Nếu hình phạt chung là cải tạo
không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 03 năm. Nếu
hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không
được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội
và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội.
2. Đối với người dưới 18 tuổi phạm
nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi, có tội được thực hiện
sau khi đủ 16 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:
a) Nếu mức hình phạt đã tuyên đối
với tội được thực hiện trước khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức
hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi thì hình phạt
chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Nếu mức hình phạt đã tuyên đối
với tội được thực hiện sau khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn mức hình phạt đã
tuyên đối với tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không
vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
theo quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Đối với người phạm nhiều tội,
có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18
tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:
a) Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên
đối với tội được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức
hình phạt áp dụng đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình
phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại khoản 1 Điều
này;
b) Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên
đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi nặng hơn mức hình phạt áp
dụng đối với tội thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp
dụng như đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội.
Điều 104. Tổng hợp hình phạt của
nhiều bản án
Việc tổng hợp hình phạt trong
trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã
phạm trước hoặc sau khi có bản án này, được thực hiện theo quy định tại Điều 55
và Điều 56 của Bộ luật này.
Hình phạt chung không được vượt
quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 103 của Bộ luật này.
Điều 105. Giảm mức hình phạt đã
tuyên
1. Người dưới 18 tuổi phạm tội bị
phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có tiến bộ và đã chấp hành được
một phần tư thời hạn, thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi
lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần
năm mức hình phạt đã tuyên.
2. Người dưới 18 tuổi phạm tội bị
phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm
nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn
lại.
3. Người dưới 18 tuổi phạm tội bị
phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên
tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị
của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc
chấp hành phần tiền phạt còn lại.
Điều 106. Tha tù trước hạn có điều
kiện
1. Người dưới 18 tuổi đang chấp
hành án phạt tù, nếu không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 66
của Bộ luật này có thể được tha tù trước hạn khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Phạm tội lần đầu;
b) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải
tạo tốt;
c) Đã chấp hành được một phần ba
thời hạn phạt tù;
d) Có nơi cư trú rõ ràng.
2. Việc tha tù trước thời hạn có
điều kiện được thực hiện theo quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 66 của Bộ
luật này.
Điều 107. Xóa án tích
1. Người dưới 18 tuổi bị kết án
được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người từ đủ 14 đến dưới 16
tuổi;
b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm
rất nghiêm trọng do vô ý;
c) Người bị áp dụng biện pháp tư
pháp quy định tại Mục 3 Chương này.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng đương nhiên được xóa án tích nếu từ khi chấp hành xong hình phạt
chính hoặc hết thời gian thử thách án treo hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành
bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a) 06 tháng trong trường hợp bị phạt
cảnh cáo, phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng
án treo;
b) 01 năm trong trường hợp bị phạt
tù đến 05 năm;
c) 02 năm trong trường hợp bị phạt
tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
d) 03 năm trong trường hợp bị phạt
tù trên 15 năm.
Tham khảo các phần tiếp theo:
- Bộ Luật hình sự - Tội xâm phạm ANQG; xâm phạm tính mạng, sức khỏe; quyền tự do dân chủ của công dân
- Bộ Luật hình sự - Phần tội phạm kinh tế
- Bộ Luật hình sự - Tội phạm môi trường, Ma túy
- Bộ luật hình sự - Tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng
- Các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ Luật hình sự 2015 hợp nhất 2017
Sẽ tiếp tục có phần các tội phạm cụ thể nhé bạn.
Trả lờiXóaVăn bản hợp nhất Bộ Luật hình sự 2015 và 2017 - Phần tội phạm (p.1), từ chương XIII đến chương XIX
Trả lờiXóaLink:
http://www.tracuuphapluat.info/2017/10/bo-luat-hinh-su-hop-nhat-phan-toi-pham-1.html