Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 quy định về "Tội trộm cắp tài sản":
Các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản
1. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người quản lý.
- Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam: Trộm cắp tài sản là "hành vi lén lút bí mật đối với người quản lý tài sản để chiếm đoạt tài sản".
- Hành vi lén lút của tội phạm là lén lút đối với việc chiếm đoạt tài sản, nhằm che giấu hành vi phạm tội để chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết việc chiếm đoạt đó. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản với các tội có tính chiếm đoạt khác (như tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội cướp tài sản…).
Việc che giấu hành vi phạm tội có thể được thực hiện bằng những hình thức khác nhau, cụ thể là:
- Che giấu toàn bộ hành vi: Trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết được bất cứ thông tin nào về người phạm tội cũng như hành vi phạm tội (Ví dụ: Lợi dụng đêm tối, lẻn vào nhà người khác lấy trộm tài sản).
- Che giấu một phần hành vi: Tức chỉ che giấu riêng hành vi phạm tội (Ví dụ: giả vờ hỏi đường, xin ngủ nhờ để có điều kiện tiếp cận tài sản rồi thực hiện hành vi chiếm đoạt). Trong trường hợp này chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản biết rõ người phạm tội nhưng không biết hành vi phạm tội.
- Che giấu tính chất của hành vi phạm tội: hành vi phạm tội được diễn ra công khai, những người không phải là chủ tài sản vẫn biết sự việc xảy ra nhưng không biết đó là hành vi trộm cắp tài sản. (Ví dụ: Lợi dụng thủ kho đi vắng, mở cửa kho chuyển hàng lên ô tô như là có việc xuất hàng bình thường, trước sự chứng kiến của nhiều người) hoặc có thể người phạm tội thực hiện hành vi lén lút với người bị hại nhưng công khai, không che giấu với những người khác (Ví dụ: hành vi móc túi ở nơi công cộng).
- Tài sản đang ở trong sự chiếm hữu của người khác, nghĩa là đang nằm trong sự chi phối, kiểm soát về mặt thực tế của chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý (Ví dụ: điện thoại, tiền đang ở trong túi áo)
- Tài sản đang còn trong khu vực quản lý, bảo quản của chủ tài sản: Đây là trường hợp tài sản tuy đã thoát ly khỏi sự chi phối, kiểm soát về mặt thực tế của chủ tài sản hoặc của người có trách nhiệm nhưng vẫn nằm trong phạm vi thuộc khu vực bảo quản. Ví dụ: Hàng hóa được thuê để trong nhà kho, có tường rào bảo vệ
- Nếu vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi đã chiếm đoạt được khi người phạm tội đã giấu được tài sản trong người.
- Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại nói trên thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo quản.
- Nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở những nơi không hình thành khu vực bảo quản riêng thì coi là đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản khỏi vị trí ban đầu. Ví dụ: A lén vào nhà B trộm cắp tài sản, khi A đã lấy được tài sản đem ra góc tường nhà B, chưa kịp đem số tài sản trên đi thì bị phát hiện. Trong trường hợp này, A đã phạm tội trộm cắp tài sản.
Trường hợp người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản nhưng bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì hành vi của người phạm tội chuyển hóa từ tội TCTS sang tội cướp tài sản.
Nếu một người có ý định trộm cắp tài sản của người khác nhưng chưa thực hiện được hành vi chiếm đoạt tài sản mà bị phát hiện thì tùy trường hợp có thể bị truy cứu TNHS về tội trộm cắp tài sản.
Hành vi trộm cắp tài sản cấu thành tội trộm cắp tài sản khi thỏa mãn một trong các dấu hiệu sau (đây là cấu thành cơ bản, tức khoản 1, thuộc tội phạm ít nghiêm trọng):
Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi TCTS có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu TNHS đối với người đó. Trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi trộm cắp tài sản có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm đến giá trị tài sản bị xâm phạm (giá trị bao nhiêu cũng được), thì lấy giá thị trường của tài sản bị trộm cắp tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó.
Ví dụ: Trộm cắp dây chuyền vàng đem bán thì mới biết là vàng giả thì vẫn bị truy cứu TNHS về tội TCTS.
Nếu giá trị tài sản dưới 02 triệu đồng thì phải thuộc một trong các trường hợp:
- a) Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản (có thể là hành vi trộm cắp tài sản hoặc hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc hành vi chiếm đoạt khác) mà còn vi phạm.
Ví dụ: A có 1 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 19/01/2020, A trộm cắp tài sản trị giá 1.000.000 đồng; ngày 10/02/2020, trộm cắp tài sản trị giá 900.000 đồng. A bị khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” với giá trị chiếm đoạt là 1.900.000 đồng theo quy định tại khoản 1, Điều 173 BLHS và không thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên” bởi vì giá trị tài sản mỗi lần trộm cắp đều dưới mức định lượng tối thiểu để định tội và 02 lần đó đã được xác định để khởi tố bị can. (hướng dẫn tại Tài liệu giải đáp khó khăn, vướng mắc tại Hội nghị tập huấn công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự năm 2020 của Vụ 7 và Vụ 14 Viện kiểm sát nhân dân Tối cao)
- b) Đã bị kết án về tội TCTS hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168 (Tội Cướp tài sản), 169 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), 170 (Tội cưỡng đoạt tài sản), 171 (Tội cướp giật tài sản), 172 (Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản), 174 (Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản), 175 (Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ) và 290 (Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản) của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
- c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: là gây ra những tác động xấu đến tình hình an ninh, tác động tiêu cực đến trật tự, an toàn xã hội mà cụ thể là gây hoang mang, lo sợ hoặc phẫn nộ trong nhân dân; gây khó khăn trong việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Khi áp dụng tình tiết này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Ví dụ: Đối tượng liên tục thực hiện những vụ trộm cắp tài sản giá trị lớn vào ban đêm gây ra tâm lý hoang mang, lo lắng, bất an cho người dân về tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
- d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. Việc xác định tài sản trộm cắp là phương tiện sống chính của người bị hại và gia đình thì tài sản đó phải là tài sản đặc biệt quan trọng, là chỗ dựa, phương tiện mưu sinh duy nhất của người bị hại và gia đình mà nếu mất đi tài sản đó thì người bị hại và gia đình lâm vào tình trạng khó khăn.
- e) Tài sản là di vật (hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, cổ vật); cổ vật (là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ 100 năm tuổi trở lên).
Ngoài ra theo hướng dẫn tại Mục I.3 của Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao thì: Trường hợp một người nhiều lần thực hiện hành vi TCTS, nhưng mỗi lần trị giá tài sản bị xâm phạm dưới 2 triệu đồng và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu TNHS, đồng thời trong các hành vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng trị giá tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên 2 triệu đồng, thì người đó phải bị truy cứu TNHS về tội TCTS, nếu các hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.
Ví dụ: Tối ngày 12/7/2021, A sử dụng xe máy đi dạo lấy trộm cây cảnh. Lần thứ nhất A vào một nhà dân, nhổ được cây cảnh trị giá 1 triệu đồng chở đi. Trên đường về, A phát hiện 1 nhà dân bên đường có để cây cảnh nên tiếp tục vào nhổ trộm 1 cây cảnh khác trị giá 1,5 triệu đồng. Trường hợp này tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2,5 triệu đồng. Do đó, A phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội TCTS.
2. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội trộm cắp tài sản cũng tương tự như tội có tính chất chiếm đoạt khác, đó là quan hệ sở hữu. Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì người phạm tội chỉ thực hiện lén lút chiếm đoạt tài sản, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà không có bất kỳ hành vi nào xâm hại đến các quan hệ xã hội khác (ví dụ như quan hệ nhân thân).
Đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội cướp giật tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội trộm cắp tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt.
Về đối tượng tác động của tội TCTS
- Đối với giấy tờ có giá: Theo hướng dẫn tại công văn 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011 của TANDTC thì giấy tờ có giá gồm: a) Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác; b) Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu; c) Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ; d) Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định); đ) Trái phiếu doanh nghiệp. Giấy tờ có giá được chia làm 02 loại là giấy tờ có giá ghi danh và giấy tờ có giá vô danh. Trong đó, Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu và Giấy tờ có giá vô danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá. Như vậy, chỉ có giấy tờ có giá vô danh mới có thể là đối tượng tác động của tội TCTS bởi vì khi chiếm đoạt được các loại giấy tờ có giá vô danh thì quyền sở hữu của chủ sở hữu mới bị ảnh hưởng và có khả năng xác lập quyền sở hữu cho người phạm tội.
- Các quyền tài sản (quyền sử dụng đất, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên quyền đối với giống cây trồng…): Quyền tài sản tuy được coi là tài sản nhưng có tính đặc thù, chỉ là một quyền năng mang tính pháp lý được Nhà nước bảo hộ, gắn liền với nhân thân một người cụ thể và được thể hiện qua các giấy tờ có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền (như giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng, giấy chứng nhận đăng ký, hợp đồng góp vốn…). Các loại giấy tờ này cũng không phải là đối tượng tác động của hành vi trộm cắp vì sau khi chiếm đoạt được thì người phạm tội cũng không thể dịch chuyển được quyền sở hữu từ chủ sở hữu sang cho mình. Nếu người phạm tội trộm cắp các loại giấy tờ trên để thực hiện một mục đích khác thì họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi sử dụng giấy tờ đó vào mục đích của họ.
- Theo BLDS, tài sản có thể là động sản hoặc bất động sản. Với tính chất hành vi chiếm đoạt của tội TCTS thì chỉ có động sản mới là đối tượng tác động của tội TCTS. Tuy nhiên, trong những trường hợp nếu bất động sản lại thuộc vật đồng bộ (như: các bộ phận được lắp vào khung căn nhà, các vật dụng, thiết bị gắn liền với quyền sử dụng đất…) có thể tách rời được thì những tài sản tách rời được có thể là đối tượng tác động của tội TCTS.
- Tài sản là đối tượng tác động của tội TCTS có thể là tài sản hợp pháp tức là những loại tài sản được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu hoặc có thể là tài sản bất hợp pháp như do phạm tội, vi phạm pháp luật (hành chính, dân sự) mà có.
- Trong một số trường hợp, người thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt các tài sản sau không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội TCTS mà bị truy cứu TNHS về các tội danh khác tương ứng với hành vi mà BLHS quy định. Cụ thể:
STT |
Loại tài sản |
Tội danh/Điều luật |
---|---|---|
1 |
Chất ma túy |
Tội
chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252) |
2 |
Tiền chất dùng vào việc sản
xuất trái phép chất ma túy |
Tội
chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 253) |
3 |
Tàu bay, tàu thuỷ |
Tội
chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ (Điều 282) |
4 |
Vũ khí quân dụng, phương tiện
kỹ thuật quân sự |
Tội
chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 304) |
5 |
Vật liệu nổ |
Tội
chiếm đoạt vật liệu nổ (Điều 305) |
6 |
Súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ |
Tội
chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ (Điều
306) |
7 |
Chất phóng xạ |
Tội
chiếm đoạt chất phóng xạ (Điều 309) |
8 |
Những đồ vật để ở trong mộ,
trên mộ |
Tội
xâm phạm mồ mả (Điều 319) |
- Khi xác định tài sản bị chiếm đoạt thuộc hình thức sở hữu chung, cần làm rõ đó là hình thức sở hữu chung hợp nhất hay hình thức sở hữu chung theo phần. Nếu tài sản bị chiếm đoạt là hình thức sở hữu chung hợp nhất không thể là đối tượng tác động của tội TCTS. Riêng sở hữu chung theo phần thì có thể là đối tượng tác động của tội TCTS nhưng phần đó phải rõ ràng tách bạch với phần sở hữu của các chủ sở hữu khác.
3. Chủ thể của tội phạm
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3, 4 điều 173 Bộ luật Hình sự (thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng), không phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 (ít nghiêm trọng) và khoản 2 (nghiêm trọng).
4. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội trộm cắp tài sản được người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang thuộc quyền sở hữu của người khác hoặc đang có người quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình khi thực hiện hành vi chiếm đoạt.
- Trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi trộm cắp có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét truy cứu TNHS về tội TCTS.
Ví dụ: C ở cạnh nhà bà L. Do thường xuyên sang nhà bà L chơi nên để ý biết được nơi bà L cất vàng. Vào ngày 01/3/2012, do cần tiền tiêu xài, C đã lén sang nhà bà L chiếm đoạt 01 sợi dây chuyền vàng, mang về nhà cất giấu. Đến ngày 03/3/2012, C đem sợi dây chuyền đến một tiệm để bán. Chủ tiệm vàng tiến hành kiểm tra thì xác định sợi dây chuyền có trọng lượng 05 chỉ nhưng là vàng giả. Qua điều tra, C đã khai nhận việc chiếm đoạt vàng của bà L. Tại thời điểm xảy ra vụ án, giá vàng được xác định là 4.000.000 đồng/chỉ. Do đó, C phạm tội TCTS.
- Trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi TCTS có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm đến giá trị tài sản đó (trị giá bao nhiêu cũng được), thì lấy giá thị trường của tài sản bị xâm phạm tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm để xem xét truy cứu TNHS về tội TCTS
Mục đích của tội phạm trộm cắp tài sản là chiếm đoạt tài sản của người khác (vụ lợi, tư lợi) nhưng mục đích chiếm đoạt không là yếu tố bắt buộc trong cấu thành cơ bản của tội này. Vì có những trường hợp, người đồng phạm với người trộm cắp tài sản nhưng không có mục đích chiếm đoạt tài sản mà không cấu thành tội khác thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản
Ví dụ:
- Anh S (thầu xây dựng) thuê Đ lắp đặt đường dây điện của Trường mẫu giáo. Trong khoảng thời gian thực hiện công việc, Đ chưa được trả công nên có yêu cầu anh S cho ứng trước. Do anh S không ứng tiền trước nên Đ lén đột nhập vào kho của công trình lấy 09 cuộn dây điện có tổng trị giá 20 triệu đồng mang về nhà cất giữ nhằm mục đích để anh S trả tiền công cho mình. Trường hợp này Đ vẫn bị truy cứu về tội trộm cắp tài sản.
Hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản
1. Hình phạt chính đối với tội trộm cắp tài sản
Mức hình phạt của tội trộm cắp tài sản được chia thành bốn khung, cụ thể như sau:
- a) Có tổ chức: là trường hợp có từ hai người trở lên cố ý cùng tham gia phạm tội cướp tài sản và có sự thống nhất với nhau về ý chí, cố ý cùng bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện tội phạm, dưới sự điều khiển của người đứng đầu. Tuy nhiên, không có sự lượng hóa cụ thể đối với sự câu kết, bàn bạc của những người phạm tội trong phạm tội có tổ chức, sự phân công nhiệm vụ, vai trò của những người đồng phạm. Trong đó, mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu;
- b) Có tính chất chuyên nghiệp: Hiện chưa có quy định thế nào là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Tuy nhiên có thể vận dụng điểm 3 Điều 5 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 324 BLHS 2015 về tội rửa tiền thì tình tiết “Có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 324 BLHS 2015 là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi rửa tiền từ 05 lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội lấy khoản lợi bất chính thu được từ việc rửa tiền làm nguồn thu nhập;
- c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
- d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. “Dùng thủ đoạn xảo quyệt” là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn dối trá một cách tinh vi, sử dụng công nghệ cao để thực hiện hành vi phạm tội, che giấu tội phạm, đổ tội cho người khác hoặc người phạm tội có hành vi tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm. “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người khác hoặc có thể gây hậu quả nghiêm trọng khác để chiếm đoạt tài sản hoặc che giấu tội phạm;
- đ) Hành hung để tẩu thoát: Là trường hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc ngay sau khi chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây nhằm tẩu thoát;
- e) Tài sản là bảo vật quốc gia: Là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học;
- g) Tái phạm nguy hiểm: Theo quy định tại khoản 2 Điều 53 BLHS thì người phạm tội TCTS bị coi là tái phạm nguy hiểm nếu: 1. Đã bị kết án về tội TCTS (theo khoản 3, 4 Điều 173 BLHS), chưa được xoá án tích mà lại phạm tội TCTS (theo khoản 3, 4 Điều 173); 2. Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội TCTS.
3. Khoản 3 (tội phạm rất nghiêm trọng): Có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
- a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
- b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh: là trường hợp người phạm tội lợi dụng vào hoàn cảnh thiên tai, dịch bệnh để thực hiện hành vi phạm tội TCTS. Tình tiết này được áp dụng không phụ thuộc vào phạm vi, mức độ của thiên tai, dịch bệnh hoặc tính chất, mức độ của những khó khăn khác của xã hội trong tình trạng thiên tai, dịch bệnh.
4. Khoản 4 (tội phạm đặc biệt nghiêm trọng): Có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau:
- a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
- b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp: Tình trạng chiến tranh là trạng thái xã hội đặc biệt của đất nước được tuyên bố trong thời gian từ khi nước nhà bị xâm lược cho tới khi hành động xâm lược đó được chấm dứt trên thực tế. Tình trạng khẩn cấp về quốc phòng là trạng thái xã hội của đất nước khi có nguy cơ trực tiếp bị xâm lược hoặc đã xảy ra hành động vũ trang xâm lược hoặc bạo loạn nhưng chưa đến mức tuyên bố tình trạng chiến tranh. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để phạm tội TCTS là trường hợp người phạm tội dựa vào các hoàn cảnh nêu trên để thực hiện tội phạm. Mức độ nguy hiểm của hành vi TCTS trong trường hợp này phụ thuộc vào tính chất của hoàn cảnh chiến tranh; tính chất, mức độ của tình trạng khẩn cấp.
2. Hình phạt bổ sung đối với tội trộm cắp tài sản
Phân biệt dấu hiệu đặc trưng của tội trộm cắp tài sản với một số tội phạm khác
1. Thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trường hợp người phạm tội dùng những thủ đoạn gian dối tiếp cận tài sản để đến khi có điều kiện mới lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại thì đó là dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản chứ không phải là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
2. Thủ đoạn đặc trưng của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là không cần che giấu hành vi và thực hiện công khai hành vi chiếm đoạt. Nhiều người nhìn thấy và không nghi ngờ gì về hành vi chiếm đoạt tài sản. Trường hợp người phạm tội lợi dụng người quản lý tài sản không có mặt ở nơi để tài sản hoặc tài sản không có người trực tiếp quản lý (tài sản ở nơi công cộng), giả làm ngưòi có trách nhiệm đến và chiếm đoạt tài sản đó. Trường hợp này người phạm tội đã thực hiện hành vi lén lút ở việc che giấu thân phận thật của mình để lén lút với mọi người xung quanh và người quản lý tài sản, tiếp cận và thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Do vậy, họ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản chứ không phải tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Ví dụ: A giả làm nhân viên khách sạn M, dọn dẹp một số cây kiểng trong khuôn viên của khách sạn. A đã dùng xe chở một số cây kiểng quý đi để chiếm đoạt số cây kiểng đó. Trường hợp này A lén lút với mọi người xung quanh nên phạm tội trộm cắp tài sản chứ không phải tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
3. Thủ đoạn đặc trưng của tội cướp giật tài sản là hành vi công khai và nhanh chóng giằng lấy, giật lấy tài sản thường là gọn nhẹ của người khác rồi nhanh chóng tẩu thoát. Trường hợp người phạm tội lợi dụng chỗ đông người lén giật tài sản của người khác để không bị phát hiện rồi sau đó chiếm đoạt tài sản ấy. Trường hợp này thực chất người phạm tội đã lén lút (không có ý thức công khai) chiếm đoạt tài sản bằng cách giật lấy tài sản thật nhanh chóng để không ai thấy. Người phạm tội đã lén lút cả đối với người bị hại và đối với người xung quanh. Do vậy, trường hợp này là tội trộm cắp tài sản chứ không phải là tội cướp giật tài sản.
Ví dụ:
- A lợi dụng xếp hàng chen lấn, giả làm khách hàng chen lấn xô đẩy mạnh làm phân tán sự chú ý của mọi người và cùng lúc đó giật dây chuyền của B rơi xuống đất để đồng bọn lấy. Trường hợp này, A không có ý thức công khai thực hiện hành vi này mà lén lút giật lấy tài sản (giật cho dây chuyền rơi xuống) rồi sau đó cùng đồng bọn chiếm đoạt. Do vậy, hành vi này phải cấu thành tội trộm cắp tài sản chứ không phải tội cướp giật tài sản.
- Chị T cùng ba người bạn ngồi uống nước tại căng tin của Trường A. Một lúc sau, chị T đi lên Phòng đào tạo, để túi xách (bên trong có 01 máy tính xách tay, trị giá 7 triệu đồng) trên ghế. Lúc này, N điều khiển xe mô tô chở H chạy ngang qua, thấy túi xách của chị T nên dừng xe để H đi bộ vào lấy túi xách trên. Khi H đi bộ vào căn tin thì thấy ba người phụ nữ đang nhìn về phía mình nên H giả vờ đi thẳng vào quầy hỏi mua thuốc lá. Hỏi xong H đi ngược trở ra. Lợi dụng lúc ba người phụ nữ không để ý, H lấy chiếc túi xách của chị T rồi chạy ra xe của N đang chờ sẵn tẩu thoát nhưng sau đó bị bắt giữ. Trường hợp này, hành vi của N và H phạm tội TCTS, không phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản hay cướp giật tài sản. Bởi vì, khi H thực hiện hành vi chiếm đoạt chiếc túi xách của chị T thì chiếc túi xách vẫn thuộc quyền sở hữu và quản lý của chị T, do chị T không chuyển giao cho ai trông giữ, quản lý chiếc túi xách này cho chị. Như vậy, ba người bạn của chị T không ai có trách nhiệm, nghĩa vụ phải trông giữ, quản lý chiếc túi xách. Do đó, hành vi chiếm đoạt chiếc túi xách của H và N không phải là hành vi công nhiên trước mặt chủ sở hữu hay người được ủy quyền quản lý, trông giữ tài sản. Hơn nữa, trong trường hợp, nếu xác định vì mối quan hệ bạn bè mà 03 người bạn của chị T có trách nhiệm quản lý túi xách dùm chị T thì hành vi của N, H vẫn phạm tội TCTS vì khi thực hiện hành vi chiếm đoạt, H đã lợi dụng lúc ba người phụ nữ không để ý để thực hiện hành vi chiếm đoạt. Vì vậy, hành vi của H vừa lén lút với cả chủ sở hữu và vơi cả người quản lý tài sản.
5. Dấu hiệu có chuyển giao hay không chuyển giao tài sản cho người có hành vi chiếm đoạt tài sản là một trong các dấu hiệu quan trọng để phân biệt TTCTS với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và các tội chiếm đoạt khác.
- Người có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đã được chủ sở hữu giao cho quản lý thì phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chứ không phải là tội trộm cắp tài sản
- Người phạm tội chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình vẫn phạm tội TCTS khi tài sản đó đã được người phạm tội chuyển giao cho người khác quản lý (cho thuê, cho mượn, cầm cố…) và người phạm tội đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đó.
Ví dụ: A cầm xe cho mô tô cho B với số tiền 5 triệu đồng. Sau đó, A mang tiền đến nhà B chuộc xe nhưng không thấy ai nên A đã lén lút lấy xe đi đến địa phương khác bán. Trường hợp này, mặc dù A có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình nhưng A vẫn phạm tội TCTS.
- Nếu tài sản thuộc quyền sở hữu của người phạm tội không được chuyển giao cho người khác quản lý nhưng vì một lý do nào đó mà thoát khỏi (có thể chỉ là tạm thời) sự quản lý của người phạm tội và khi thực hiện hành vi người phạm tội hoàn toàn không biết đó là tài sản của mình vẫn phạm tội trộm cắp tài sản.
- Người có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản do người khác phạm tội mà có nếu người thực hiện hành vi chiếm đoạt không được người phạm tội chuyển giao tài sản thì người có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản phạm tội TCTS chứ không phải tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Tham khảo Bình luận các tội xâm phạm sở hữu khác: Bình luận khoa học Bộ Luật hình sự phần chung và tội phạm
Ý KIẾN