Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin thì hành vi vu khống ngày càng được thực hiện với những phương thức, thủ đoạn tinh vi và phức tạp hơn. Nhiều người lợi dụng mạng xã hội, điển hình là Facebook để đưa hình ảnh, video clip, phát tán thông tin xuyên tạc nhằm bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, gây bức xúc trong dư luận.
Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định về Tội vu khống như sau:
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người đang thi hành công vụ;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Vì động cơ đê hèn;
b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Làm nạn nhân tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Các yếu tố cấu thành tội vu khống
I. Mặt khách quan của tội phạm:
Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
"
Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”. “Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền tự mình cải chính; yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi, xin lỗi, cải chính công khai; yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại”.Điểm d khoản 1 Điều 5 Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng internet và thông tin trên mạng, cấm hành vi “Đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân”.
Căn cứ khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về Tội vu khống thì: Vu khống là hành vi bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, theo quy định trên, một người chỉ bị coi là phạm tội vu khống khi và chỉ khi có một trong các hành vi sau đây:
- Hành vi thứ nhất: Có hành vi bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Hành vi này thể hiện qua việc người phạm tội đã tự đặt ra và loan truyền những điều không đúng với sự thật và có nội dung xuyên tạc để xúc phạm đến danh dự của người khác hoặc để gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Theo Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 Phần các tội phạm của Đinh Văn Quế - nguyên Chánh án Tòa Hình sự TAND Tối cao thì: “Bịa đặt là đưa ra những thông tin không đúng sự thật, tự nghĩ ra một điều gì đó mà không có với người khác như: không tham ô thì bảo là tham ô, không quan hệ bất chính lại tố cáo là quan hệ bất chính, không nhận hối lộ lại tố cáo là nhận hối lộ…”. Hình thức đưa ra những thông tin nói trên có thể dưới những dạng khác nhau như: nói trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc qua các phương thức khác: nhắn tin qua điện thoại di động…
Ví dụ: Nhân viên cơ quan đã đưa ra tin tức là trưởng phòng của mình có hành vi đồi bại, dâm ô đối với mình hoặc với người khác (nhưng trên thực tế không có thật) nhằm để hạ uy tín và làm cho trưởng phòng bị kỷ luật phải bị mất chức.
- Hành vi thứ hai: Loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Hành vi này được thể hiện qua việc ngưòi phạm tội tuy không đặt ra những điều không đúng sự thật về người khác và biết rõ điều đó là bịa đặt (việc biết rõ điều mình loan truyền là bịa đặt là dấu hiệu bắt buộc) nhưng vẫn loan truyền điều bịa đặt đó cho người khác. Việc loan truyền này có thể bằng nhiều hình thức khác nhau như: sao chép làm nhiều bản gửi đi nhiều nơi, kể lại cho người khác nghe, đăng tin, bài trên các phương tiện thông tin đại chúng v.v...
Người có hành vi loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt có thể biết điều đó do ai bịa đặt hoặc cũng có thể chỉ biết đó là bịa đặt còn ai bịa đặt thì không biết. Người loan truyền phải biết rõ điều mình loan truyền là không có thực nếu họ còn bán tin bán nghi thì cũng chưa cấu thành tội vu khống.
- Hành vi thứ ba: Bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Đây là dạng hành vi đặc biệt của hành vi phạm tội vu khống. Là hành vi tố cáo trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Công an, Viện kiểm sát…) về một tội phạm xảy ra và người thực hiện tội phạm mà hoàn toàn không có thực (tự mình bịa ra rằng người khác có hành vi thực hiện một tội phạm nào đó mặc dù thực tế người này không phải là người thực hiện những hành vi phạm tội đó). Trong trường hợp này, cần lưu ý là người phạm tội biết rõ người mình tố giác không có hành vi phạm tội nhưng vẫn tố giác họ.
Theo Bộ luật tố tụng hình sự thì khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với cơ quan tổ chức bằng hai cách: tố giác bằng miệng hoặc viết đơn tố giác tội phạm. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng chỉ nên tố giác tội phạm khi biết hành vi vi phạm pháp luật là có thật hoặc có cơ sở, căn cứ để tố giác về hành vi vi phạm pháp luật đó.
Trong thực tế có nhiều trường hợp các cơ quan nhà nước nhận được tin báo về tội phạm và người phạm tội, sau khi xác minh thấy không có tội phạm xảy ra đã không khởi tố vụ án hình sự. Có trường hợp mặc dù đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, thậm chí đã truy tố ra trước Tòa án và Tòa án đã kết án người bị tố cáo, nhưng sau khi kiểm tra lại toàn bộ chứng cứ, tài liệu do cơ quan tiến hành tố tụng thu thập thì mới xác định tội phạm và người phạm tội bị tố cáo là không có thực.
Tuy nhiên không phải vì thế mà cho rằng người tố cáo đã có hành vi vu khống mà phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể (căn cứ lý do, mục đích khác nhau của việc cung cấp tin báo tố giác tội phạm) để xác định người tố cáo không đúng đó có phải là vu khống không. Đây cũng là một vấn đề khá phức tạp cả về lý luận cũng như thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử hiện nay.
Về phía người bị hại - tức người bị vu khống phải là công dân (con người cụ thể) chứ không phải là pháp nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Người bị hại trong vụ án vu khống có thể bị xúc phạm danh dự, cũng có thể bị thiệt hại về tài sản hoặc những thiệt hại khác về tinh thần, về sức khoẻ... nhưng chủ yếu là thiệt hại về tinh thần (danh dự). Người phạm tội vu khống thuộc trường hợp quy định ở khoản 1 chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi người bị hại có đơn yêu cầu khởi tố hình sự. Nếu trước ngày mở phiên toà sơ thẩm hình sự, người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố thì vụ án phải được đình chỉ.
Ngoài ra, nếu tính chất và mức độ của hành vi xuyên tạc, vu khống là nghiêm trọng và có đủ căn cứ thì hành vi này sẽ bị xử lý hình sự theo các tội danh tương ứng: “Tội làm nhục người khác” (Xem: Bình luận tội làm nhục người khác - Điều 155 BLHS 2015) hay “Tội vu khống”. Hai tội danh này có điểm chung là đều nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác. Tuy nhiên tội làm nhục người khác thường thể hiện bằng lời nói như chửi rủa, sỉ nhục ở nơi đông người, bằng viết, vẽ hay những hành động khác có tính chất bỉ ổi.
b. Khách thể của tội phạm
Hành vi nêu trên xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân.
Đối tượng bị vu khống của tội này không phải là pháp nhân hay một nhóm người mà là con người cụ thể.
c. Mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Mục đích nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi của người bị hại là yếu tố bắt buộc.
Người phạm tội biết những thông tin mình đưa ra là không đúng sự thật nhưng đã thực hiện nhằm mục đích xúc phạm danh dự hoặc nhằm gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Những thiệt hại này có thể đã xảy ra hoặc cũng có thể chưa xảy ra.
d. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội này là người từ 16 tuổi trở lên.
Người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì tội phạm này có hai khoản nhưng không có trường hợp nào quy định là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng và điều 12 BLHS cũng không liệt kê đây là tội phạm mà người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự.
III. Về hình phạt
Mức hình phạt đối với tội phạm này được chia thành hai khung, cụ thể như sau:
Khung hình phạt cơ bản (khoản 1)
Có mức hình phạt là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này với hành vi đã bình luận nêu ở mặt khách quan.
Khung hình phạt tăng nặng (Khoản 2)
Có mức phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
- a) Có tổ chức (xem giải thích tương tự ở tội giết người);
- b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn (xem giải thích tương tự ở tội làm nhục người khác);
- c) Đối với nhiều người (từ hai người bị hại trở lên).
Ví dụ: Chiều ngày 19/01/2021, C thuê in ảnh của chị L (C và L trước đã có quan hệ tình cảm sau đó chia tay), trên khổ giấy A4 kèm theo nội dung:
“Con này là Nguyễn Thị L loạn luân với em chồng Lê V đang làm việc tại Công ty M. Cứ một tuần là Lê V khoảng 9 đến 10 giờ là lái xe lên chở đi tỉnh Q để quan hệ tình dục. Bên cạnh đó còn quan hệ với người yêu cũ tên V và nhiều người khác. Vậy tôi thông báo ai đã quan hệ tình dục với con này nên đi xét nghiệm bệnh xã hội. Số điện thoại: 0943513xxx”. C mang khoảng 30 tờ giấy in được đem rải dọc tuyến đường ở khu vực chợ B, tỉnh Q và trước cổng nhà chị L rồi trở về nhà ngủ. Sau đó chị L và anh V phát hiện sự việc nên làm đơn trình báo Công an. Đồng thời do C thấy anh V nhiều lần đến nơi làm việc chở L về nên C nghĩ giữa anh V và chị L có quan hệ tình cảm nên tức giận và nảy sinh ý định in các tờ rơi có nội dung như trên để nhằm xúc phạm danh dự, uy tín, bôi nhọ chị L, anh V. Như vậy, C đã phạm tội Vu khống theo điểm c Điều 156 BLHS.
- d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho chính người phạm tội (cho mình).
- đ) Đối với người đang thi hành công vụ (xem giải thích tương tự ở tội đe doạ giết người).
- e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
Ví dụ: N và chị T.H kết hôn với nhau giữa năm 2017, đến ngày 21/10/2019 thì ly hôn. Sau khi ly hôn, do có một số mâu thuẫn trong quá trình chung sống, N. nảy sinh ý định lập một tài khoản Facebook giả mạo chị T.H nhằm mục đích đăng bài gây ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm chị H. Ngày 16/11/2019, N. sử dụng điện thoại lập một tài khoản Facebook mang tên "T.H”. Sau đó sử dụng thông tin cá nhân của chị H và tải 13 hình ảnh của chị H đang sử dụng trên Facebook mang tên “Huyen Ngo” rồi đăng lên trang facebook “T.H” để mọi người tin rằng chị H là người sử dụng facebook “T.H”. Sau đó N tìm một số hình ảnh phụ nữ khiêu dâm có đặc điểm giống chị H trên mạng internet, rồi đăng lên facebook “T.H” kèm 18 bài viểt với nội dung thể hiện chị H là gái bán dâm, nhận đi khách qua đêm. Tháng 02/2020, bạn của chị H phát hiện tài khoản facebook “T.H” có nội dung bán dâm nên đã báo cho chị H. Chị H vào xem các hình ảnh và bài đăng trên tài khoản facebook “T.H” thấy bị xúc phạm, ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, nên đã trình báo tại Công an. N đãphạm tội Vu khống theo điểm e khoản 2 Điều 156 BLHS.
- g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
- h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Khung hình phạt tăng nặng (Khoản 3)
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
Ví dụ: Ngày 30/6/2021, do bực tức vì không được nhận vào làm cộng tác viên Văn phòng đại diện Báo pháp luật Việt Nam tại tỉnh Thừa Thiên Huế nên P nảy sinh ý định trả thù nhằm hạ uy tín của ông T – Trưởng Văn phòng Báo pháp luật Việt Nam tại tỉnh Thừa Thiên Huế và các ông Q và ông N là cộng tác viên của tờ báo. Để thực hiện ý định trên, P đã soạn thảo các văn bản, mạo danh ông T, Q, N với nội dung bịa đặt, không có thật gửi đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và Giám đốc công an tỉnh của ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Hành vi của P đã xúc phạm đến danh dự, uy tín của Văn phòng Báo pháp luật Việt Nam khu vực miền Trung và các cộng tác viên, phóng viên của Văn phòng. P đã phạm tội “Vu khống” theo điểm a khoản 3 Điều 156 BLHS.
- b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
- c) Làm nạn nhân tự sát.
Hình phạt bổ sung (khoản 4)
Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị:
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm./.
Minh Hùng (Tổng hợp)
Có người dungloa phát thanh Thực hiện hành vi xúc phạm vu khống sĩ nhục người khác. Đã gửi đơn lên xã. Xã không giải quyết. Gửi lên huyện. Huyện cũng không giải quyết thì làm sao?
Trả lờiXóaĐiều 34 Bộ luật dân sự 2015 quy định về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín như sau:
Xóa“1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
…
5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.”
Như vậy, người có hành vi dùng loa phát thanh xúc phạm vu khống sĩ nhục bạn là không phù hợp với quy định của pháp luật dân sự.
Hành vi của người đó có thể xem xét xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự theo quy định.
Khoản 1 Điều 5 Nghị định 167/2015/NĐ-CP quy định về xử phạt với hành vi vi phạm về trật tự công cộng như sau:
“1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;”
Bên cạnh đó, Điều 156 Bộ luật hình sự 2015 quy định vềTội vu khống như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
…”
Như vậy, tùy từng mức độ hành vi của người dùng loa phát thanh có thể bị xử lý theo các quy định nêu trên. Nếu người đó tiếp tục có hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của bạn và gia đình thì bạn có thể liên hệ gởi đơn cho cơ quan công an đề nghị giải quyết.
Mình có làm cho 1 công ty bị họ không trả lương. Mình đã làm đơn lên phường 1 lần nhưng ko dc trả lời. Mình đăng lên mạng với nội dung: "nh gửi: Qúy tổng thầu cơ điện DSEATECH
Trả lờiXóaĐ/c:
Trước hết, CÁC TỔ ĐỘI CHÚNG TÔI ĐÃ HỢP TÁC VỚI TỔNG THẦU DSEATECH xin gửi tới DSEATECH những lời chúc tốt đẹp nhất.
Chúng tôi rất vinh dự được giới thiệu về hợp tác với DSEATECH và để lại những thành quả mang lại cho DSEATECH các bạn
Căn cứ:
-Luật lao động;
-Nghị định 95/2013/NĐ-CP
-Hợp đồng lao động;
-Hợp đồng giao khoán.
-Quyết định thanh quyết toán
-Quyết định trả lương cho nhân viên
-Điểm a khoản 3 điều 13 nghị định số 95/2013/NĐ-CP
-Điều 96 bộ luật lao động
-Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự 2015
Chúng tôi gồm các nhà thầu phụ, nhân viên công ty DSEATECH đã từng làm việc cho cty DSEATECH
Chúng tôi đã hoàn thành khối lượng và đã được ban quản lý chất lượng. Cán bộ kĩ thuật. TVGS nghiệm thu và kí dấu đầy đủ và xác nhận khối lượng hoàn thành; tuy nhiên, đến nay, tôi vẫn chưa được bộ phận tài chính của công ty thanh toán tiền theo điều 7.1, 7.2 trong hợp đồng.
Vì vậy, tôi có chứng cứ cho việc công ty chậm thanh toán và không có động thái thanh toán tiền.
Tôi đã nhiều lần phản ánh về tình trạng này tuy nhiên đều không được công ty DSEATECH hồi đáp thỏa đáng. Chặn cuộc gọi, tin nhắn của chúng tôi.
Đề nghị, công ty nhanh chóng giải quyết tiền cho chúng tôi"
Mình đăng lên facebook công khai như vậy và kèm theo địa chỉ công ty. Hình ảnh của giám đốc kèm theo. Mình có đầy đủ cơ sở và chứng cứ . Vậy cho mình hỏi mình có phạm tội làm nhục người khác không