Thông tư liên tịch 02/2012/TTLT-VKSTC-TTCP-BCA-BQP quy định về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan thanh tra, điều tra và Viện kiểm sát trong việc phát hiện, điều tra, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm do Cơ quan thanh tra kiến nghị khởi tố
VKSNDTC - THANH TRA CHÍNH PHỦ - BỘ CÔNG AN -
BỘ QUỐC PHÒNG
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
Số: 02/2012/TTLT-VKSTC-TTCP-BCA-BQP
|
Hà Nội, ngày 22 tháng 03 năm 2012
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
QUY ĐỊNH VỀ QUAN HỆ PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN THANH TRA, CƠ
QUAN ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG VIỆC PHÁT HIỆN, ĐIỀU TRA, XỬ LÝ CÁC VỤ
VIỆC CÓ DẤU HIỆU TỘI PHẠM DO CƠ QUAN THANH TRA KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
Căn
cứ Bộ luật Tố tụng hình sự ngày 10 tháng 12 năm 2003;
Căn
cứ Luật Thanh tra ngày 15 tháng 11 năm 2010;
Căn
cứ Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 02 tháng 4 năm 2002;
Căn
cứ Luật phòng, chống tham nhũng ngày 29 tháng 11 năm 2005;
Căn
cứ Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự ngày 20 tháng 8 năm 2004;
Để
nâng cao hiệu quả và bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa Cơ quan thanh tra, Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ
việc có dấu hiệu tội phạm do Cơ quan thanh tra kiến nghị khởi tố; Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng thống nhất quy
định như sau:
Điều
1. Về phạm vi quan hệ phối hợp
Thông tư
này quy định về mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan thanh tra, Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội
phạm do Cơ quan thanh tra kiến nghị khởi tố vụ án hình sự; trao đổi thông tin
về tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm.
Điều
2. Quan hệ, phối hợp trong việc trao đổi thông tin về tình hình vi phạm pháp
luật và tội phạm
1. Cơ
quan thanh tra, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát căn cứ vào chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của từng ngành, theo quy định của pháp luật có trách nhiệm thường
xuyên quan hệ, phối hợp để trao đổi, cung cấp cho nhau thông tin về tình hình
vi phạm pháp luật, tội phạm đã được phát hiện thông qua hoạt động thanh tra,
điều tra và kiểm sát điều tra; kịp thời trao đổi thông tin, kết quả giải quyết
tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan thanh tra về những
vụ việc, những lĩnh vực trọng điểm mà Cơ quan thanh tra, Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát cùng quan tâm. Đối với những vụ việc Cơ quan thanh tra đã tiến
hành thanh tra nhưng không kiến nghị khởi tố, nếu có căn cứ cho thấy cần phải
tiếp tục xác minh làm rõ, thì Cơ quan thanh tra có công văn đề nghị Cơ quan
điều tra phối hợp để xác minh làm rõ thêm.
2. Đối
với các vụ việc có dấu hiệu tội phạm do Cơ quan thanh tra kiến nghị khởi tố và
chuyển hồ sơ đến Cơ quan điều tra, nếu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự thì sau khi Cơ quan điều tra kết luận điều tra, Viện kiểm sát có
Cáo trạng truy tố; Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát có trách nhiệm thông báo
bằng văn bản cho Cơ quan thanh tra đã kiến nghị khởi tố biết.
Điều
3. Quan hệ phối hợp trong việc xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội phạm do Cơ
quan thanh tra kiến nghị khởi tố
1. Trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, nếu Cơ quan thanh tra nhận được tố
giác, tin báo về tội phạm hoặc phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm với đầy
đủ tài liệu, chứng cứ, thì Cơ quan thanh tra chuyển ngay tố giác, tin báo về
tội phạm hoặc tài liệu, chứng cứ và hồ sơ vụ việc đó kèm theo kiến nghị khởi tố
cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng
hình sự.
2. Trong
trường hợp vụ việc có dấu hiệu tội phạm được phát hiện và kết luận sau khi kết
thúc cuộc thanh tra, thì trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ký kết luận
thanh tra, Cơ quan thanh tra ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc đó và văn bản
kiến nghị khởi tố đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để xem xét khởi tố vụ án
hình sự, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết theo
quy định tại điểm o khoản 1 Điều 48 và điểm n khoản 1 Điều 55 Luật Thanh tra
năm 2010.
Điều
4. Về thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ vụ việc và kiến nghị khởi tố của Cơ quan thanh
tra
1. Vụ
việc có dấu hiệu tội phạm xảy ra ở cơ quan, đơn vị thuộc cấp hành chính nào
hoặc của đơn vị quân đội cấp nào thì chuyển hồ sơ kiến nghị khởi tố cho Cơ quan
điều tra có thẩm quyền của cấp đó giải quyết; vụ việc có dấu hiệu tội phạm xảy
ra ở cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của cấp Bộ hoặc Chính phủ thì chuyển
hồ sơ kiến nghị khởi tố cho Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an hoặc Cơ quan
Điều tra hình sự Bộ Quốc phòng.
2.
Trường hợp vụ việc vi phạm pháp luật có nhiều tình tiết phức tạp, liên quan đến
nhiều cấp, nhiều ngành, nếu thấy cần thiết thì trước khi chính thức kết luận
thanh tra và kiến nghị khởi tố, Cơ quan thanh tra có thể tổ chức họp Lãnh đạo
liên ngành gồm Cơ quan thanh tra, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp để
phân tích, đánh giá những tài liệu đã thu thập được. Nếu liên ngành thống nhất
xác định vụ việc đã rõ dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan thanh tra chuyển ngay hồ
sơ và kiến nghị khởi tố đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để khởi tố vụ án và
điều tra theo quy định của pháp luật.
3. Sau
khi Cơ quan điều tra tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ, kiến nghị khởi tố của Cơ quan
thanh tra; nếu thấy sự việc phạm tội không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình
thì Cơ quan điều tra chuyển hồ sơ, kiến nghị khởi tố đến Cơ quan điều tra có
thẩm quyền để thụ lý giải quyết, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm
sát cùng cấp và Cơ quan Thanh tra đã kiến nghị khởi tố biết.
Điều
5. Về việc giải quyết kiến nghị khởi tố của Cơ quan thanh tra
1. Sau
khi nhận được hồ sơ và bản kiến nghị khởi tố do Cơ quan thanh tra chuyển đến,
qua kiểm tra nếu thấy chưa đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự, thì Cơ quan điều
tra trực tiếp điều tra, xác minh để thu thập, bổ sung chứng cứ, đồng thời đề
nghị Cơ quan thanh tra phối hợp thu thập thêm tài liệu, chứng cứ bổ sung vào hồ
sơ kiến nghị khởi tố.
Trong
trường hợp Cơ quan thanh tra đã bổ sung tài liệu, chứng cứ mà vẫn không có căn
cứ xác định dấu hiệu tội phạm, thì Cơ quan điều tra ra quyết định không khởi tố
vụ án hình sự. Nếu Viện kiểm sát cùng cấp đồng ý với quyết định không khởi tố
vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, thì Cơ quan điều tra làm thủ tục trả lại hồ
sơ cho Cơ quan thanh tra giải quyết theo thẩm quyền. Nếu tài liệu bổ sung xác
định vụ việc có dấu hiệu tội phạm và thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì
Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và thông báo bằng văn bản
cho Cơ quan thanh tra đã kiến nghị khởi tố biết.
Trong
thời hạn 24 giờ kể từ khi ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc Quyết định
không khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra phải gửi các quyết định kèm theo
tài liệu có liên quan đến Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc khởi tố hoặc
không khởi tố theo quy định tại Điều 104, Điều 108 và Điều 109 của Bộ luật tố
tụng hình sự.
2.
Trường hợp khi kết thúc cuộc thanh tra, Cơ quan thanh tra không kiến nghị khởi
tố, nhưng Cơ quan điều tra phát hiện vụ việc đã thanh tra có dấu hiệu tội phạm
thì ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và gửi Quyết định đó kèm theo tài liệu
liên quan đến Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc khởi tố. Trong trường hợp
này, nếu Cơ quan điều tra đề nghị thì Cơ quan thanh tra có trách nhiệm phối hợp
cung cấp những tài liệu liên quan đến việc xác định tội phạm mà Cơ quan thanh
tra đã thu thập được trong quá trình thanh tra.
3. Cơ
quan điều tra có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ và bản kiến nghị khởi tố do Cơ
quan thanh tra chuyển đến và trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được
hồ sơ, Cơ quan điều tra phải ra một trong những quyết định sau đây:
a) Quyết
định khởi tố vụ án hình sự;
b) Quyết
định không khởi tố vụ án hình sự;
4. Trong
trường hợp vụ việc có dấu hiệu tội phạm nhưng có nhiều tình tiết phức tạp, phải
kiểm tra, xác minh thêm ở nhiều nơi để làm rõ căn cứ khởi tố vụ án hình sự thì
thời hạn giải quyết có thể dài hơn nhưng không được quá sáu mươi ngày. Quá thời
hạn trên, mà Cơ quan thanh tra không nhận được thông báo bằng văn bản về việc
xử lý của Cơ quan điều tra, thì có quyền kiến nghị với Viện kiểm sát cùng cấp
và Cơ quan điều tra cấp trên để xem xét, giải quyết.
Điều
6. Quan hệ phối hợp trong việc giải quyết kiến nghị đối với các trường hợp
quyết định không khởi tố vụ án hình sự, hoặc quyết định khởi tố vụ án hình sự
không có căn cứ
1. Trong
quá trình tiếp nhận hồ sơ, giải quyết kiến nghị khởi tố do Cơ quan thanh tra
chuyển đến, qua điều tra, xác minh nếu thấy không có căn cứ để khởi tố vụ án
hình sự thì Cơ quan điều tra ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự và thông
báo bằng văn bản, nêu rõ lý do không khởi tố để Cơ quan thanh tra biết.
2. Khi
nhận được Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định không khởi tố vụ án hình
sự của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phân công ngay Kiểm sát viên để kiểm tra
tính có căn cứ, tính hợp pháp của các Quyết định đó và đề xuất bằng văn bản với
Lãnh đạo Viện kiểm sát giải quyết như sau:
a) Nếu
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra không có căn cứ,
thì Viện kiểm sát ra Quyết định hủy bỏ quyết định đó và ra Quyết định khởi tố
vụ án hình sự, chuyển cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền thực hiện việc điều
tra theo quy định tại Điều 109 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
b) Nếu
Quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra không có căn cứ, thì Viện
kiểm sát ra Quyết định hủy bỏ quyết định đó và yêu cầu Cơ quan điều tra giao
lại hồ sơ cho Cơ quan thanh tra đã kiến nghị để giải quyết theo thẩm quyền.
3.
Trường hợp không đồng ý với các Quyết định của Viện kiểm sát quy định tại các
điểm a, b khoản 2 Điều 6 của Thông tư liên tịch này thì Cơ quan điều tra vẫn
phải chấp hành, nhưng có quyền kiến nghị Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp và
báo cáo Cơ quan điều tra cấp trên trực tiếp; nếu là Cơ quan điều tra ở cấp
Trung ương thì kiến nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương xem xét, quyết định.
Trong
thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Cơ quan điều tra,
nếu Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp đồng ý với kiến nghị của Cơ quan điều tra
thì ra Quyết định hủy bỏ quyết định của Viện kiểm sát cấp dưới, nếu không đồng
ý thì thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do cho Cơ quan điều tra đã kiến nghị và
Viện kiểm sát cấp dưới. Kết quả giải quyết của Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp, quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của Viện
trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương là quyết định cuối cùng.
4.
Trường hợp Cơ quan thanh tra không đồng ý với Quyết định không khởi tố vụ án hình
sự của Cơ quan điều tra mà Viện kiểm sát cùng cấp cũng cho rằng quyết định đó
có căn cứ nên không hủy bỏ; hoặc Cơ quan thanh tra không đồng ý với Quyết định
hủy bỏ Quyết định khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát thì có quyền kiến
nghị Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong trường hợp Cơ quan Thanh tra Chính
phủ kiến nghị thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, quyết
định. Nếu Cơ quan thanh tra Bộ Quốc phòng kiến nghị thì Viện trưởng Viện kiểm
sát quân sự Trung ương xem xét, quyết định.
Trong
thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị, nếu Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp đồng ý với kiến nghị của Cơ quan thanh tra thì hủy bỏ quyết định
của Viện kiểm sát cấp dưới, nếu không đồng ý với kiến nghị của Cơ quan thanh
tra thì thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do. Kết quả giải quyết của Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp, quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương là quyết định cuối cùng.
5. Khi
Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án nhưng quá trình điều tra thu thập tài liệu,
chứng cứ có kết quả khác với những nội dung ghi trong văn bản kiến nghị khởi tố
của Cơ quan thanh tra thì Cơ quan điều tra thông báo bằng văn bản cho Cơ quan
thanh tra đã kiến nghị khởi tố vụ án hình sự biết.
Điều
7. Hồ sơ kiến nghị khởi tố và việc giao nhận hồ sơ
1. Người
ra Quyết định thanh tra là người có quyền quyết định chuyển hồ sơ và kiến nghị
Cơ quan điều tra xem xét khởi tố vụ án hình sự. Tài liệu trong hồ sơ kiến nghị
khởi tố là tài liệu gốc, nếu tài liệu là bản sao thì đối tượng thanh tra giao
nộp tài liệu phải đóng dấu, xác nhận. Trưởng đoàn thanh tra phải chịu trách
nhiệm pháp lý về hồ sơ này.
2. Hồ sơ
kiến nghị khởi tố gồm:
a) Văn
bản kiến nghị Cơ quan điều tra xem xét khởi tố vụ án hình sự do người ra quyết
định thanh tra ký, trong đó nêu rõ hành vi có dấu hiệu tội phạm, đối tượng có
hành vi vi phạm pháp luật, hậu quả thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật gây
ra, thời gian, địa điểm xảy ra hành vi vi phạm pháp luật.
b) Quyết
định thanh tra, biên bản xác minh sự việc có vi phạm pháp luật do Đoàn thanh
tra, Thanh tra viên lập, báo cáo, giải trình của đối tượng thanh tra.
c) Báo
cáo của Trưởng đoàn thanh tra về những vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm
của đối tượng thanh tra. Trong trường hợp cuộc thanh tra đã kết thúc, người ra
quyết định thanh tra mới kiến nghị Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự, thì
hồ sơ kiến nghị khởi tố phải có Bản trích văn bản kết luận thanh tra về vụ việc
vi phạm pháp luật mà Cơ quan thanh tra kiến nghị khởi tố.
3. Kèm
theo hồ sơ kiến nghị khởi tố, Cơ quan thanh tra phải chuyển toàn bộ những tài
liệu, hóa đơn, chứng từ, sổ sách có liên quan cho Cơ quan điều tra. Những đồ
vật, tiền, vàng liên quan trực tiếp đến vụ việc vi phạm pháp luật thu được
trong quá trình thanh tra phải được quản lý và xử lý theo quy định của pháp
luật.
4. Việc
giao nhận hồ sơ và kiến nghị khởi tố giữa Cơ quan điều tra và Cơ quan thanh tra
được tiến hành tại trụ sở Cơ quan thanh tra hoặc Cơ quan điều tra. Khi giao hồ
sơ kiến nghị khởi tố sang Cơ quan điều tra, Cơ quan thanh tra phải lập bảng kê
đầy đủ tên các tài liệu, đồ vật có trong hồ sơ. Việc giao nhận hồ sơ phải được
lập biên bản giao nhận, người giao và người nhận ký biên bản và ghi rõ họ tên.
Điều
8. Tổ chức thực hiện
Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng tổ
chức triển khai thực hiện Thông tư liên tịch này. Định kỳ mỗi năm một lần, căn
cứ tình hình kết quả công tác quan hệ phối hợp giữa Cơ quan thanh tra, Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát; Viện kiểm sát các cấp chủ trì tổ chức họp Lãnh đạo
liên ngành Thanh tra, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp để đánh giá kết
quả thực hiện Thông tư liên tịch và rút kinh nghiệm về sự phối hợp trong công
tác phát hiện, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội phạm do Cơ quan thanh tra kiến
nghị khởi tố, đồng thời bàn biện pháp phối hợp tiếp theo.
Điều
9. Hiệu lực thi hành
1. Thông
tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 6 tháng 5 năm 2012 và thay thế
Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-VKSTC-TTrCP-BCA-BQP ngày 23 tháng 5 năm 2006
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an và Bộ Quốc
phòng về quan hệ phối hợp trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có
dấu hiệu tội phạm do Cơ quan thanh tra kiến nghị khởi tố.
2. Trong
quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc hoặc cần được hướng dẫn bổ sung thì Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Cơ quan thanh tra địa phương phản ánh về Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng để có
sự giải thích, hướng dẫn bổ sung kịp thời.
KT. TỔNG THANH TRA CHÍNH PHỦ
PHÓ TỔNG THANH TRA Nguyễn Văn Thanh |
KT. VIỆN TRƯỞNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO PHÓ VIỆN TRƯỞNG THƯỜNG TRỰC Hoàng Nghĩa Mai |
||
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN
THỨ TRƯỞNG Trung tướng Phạm Quý Ngọ |
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ QUỐC PHÒNG
THỨ TRƯỞNG Thượng tướng Nguyễn Thành Cung |
Ý KIẾN