Toàn bộ nội dung văn bản Bộ Luật tố tụng dân sự được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua năm 2004
- Tải về sách Ebook Bộ luật Tố tụng dân sự và văn bản hướng dẫn, biễu mẫu kèm theo
- Bộ Luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn mới nhất
BỘ LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ
Phần thứ nhất
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Chương I
NHIỆM VỤ VÀ HIỆU LỰC CỦA BỘ
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
Điều 1. Phạm vi điều
chỉnh và nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng dân sự
Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng
dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Toà án giải quyết các vụ án về tranh
chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây
gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Toà án giải quyết
các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân
sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Toà án; thi hành án
dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá nhân,
cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) có
liên quan nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng,
chính xác, công minh và đúng pháp luật.
Bộ luật tố tụng dân sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật.
1. Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối với mọi hoạt động tố tụng
dân sự trên toàn lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
2. Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối với mọi hoạt động tố tụng
dân sự do cơ quan Lãnh sự của Việt Nam tiến hành ở nước ngoài.
3. Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối với việc giải quyết vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
ký kết hoặc gia nhập có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế
đó.
4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng các
quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao hoặc các quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự theo
pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ký kết hoặc gia nhập thì vụ việc dân sự có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ
chức đó được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
Điều 3. Bảo đảm pháp
chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự
Mọi hoạt động tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuân theo các quy
định của Bộ luật này.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ
án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu
Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.
1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự
khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền
chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự
nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh như
đương sự.
2. Toà án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường
hợp do Bộ luật này quy định.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đương sự, Toà án chứng cứ trong vụ án mà cá
nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự,
Toà án; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản
cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng
cứ.
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân
biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn
hoá, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình
thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác.
Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự,
Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình.
Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều
kiện theo quy định của Bộ luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Toà án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của
họ.
Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để
các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy
định của Bộ luật này.
Việc xét xử các vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định
của Bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.
Khi xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thực hiện
nhiệm vụ.
1. Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự phải tôn trọng nhân dân và
chịu sự giám sát của nhân dân.
2. Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự chịu trách nhiệm trước pháp
luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành
tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà
bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp
luật.
3. Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự phải giữ bí mật nhà nước, bí
mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân
tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của các đương sự
theo yêu cầu chính đáng của họ.
4. Người tiến hành tố tụng dân sự có hành vi trái pháp luật gây thiệt
hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thì Toà án phải bồi thường cho người bị thiệt
hại và người tiến hành tố tụng có trách nhiệm bồi hoàn cho Toà án theo quy định
của pháp luật.
Toà án xét xử tập thể vụ án dân sự và quyết định theo đa số.
1. Việc xét xử vụ án dân sự của Toà án được tiến hành công khai, mọi
người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định.
2. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần
phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời
tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Toà án xét xử kín,
nhưng phải tuyên án công khai.
Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Viện
trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, người phiên dịch, người giám định không
được tiến hành hoặc tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có
thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
1. Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị
theo quy định của Bộ luật này.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật; đối
với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét
xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
2. Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện
có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của Bộ luật này.
Toà án cấp trên giám đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới, Toà án nhân
dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án các cấp để bảo đảm việc áp dụng
pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất.
Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi
hành và phải được mọi công dân, cơ quan, tổ chức tôn trọng. Cá nhân, cơ quan,
tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh
chấp hành.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Toà án nhân dân và các cơ
quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Toà án phải
nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện
nhiệm vụ đó.
Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự là tiếng Việt.
Người tham gia tố tụng dân sự có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của
dân tộc mình, trong trường hợp này cần phải có người phiên dịch.
1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định
của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp
luật.
2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà đối với những vụ án do Toà
án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án,
quyết định của Toà án.
1. Toà án có trách nhiệm chuyển giao trực tiếp hoặc qua bưu điện bản
án, quyết định, giấy triệu tập, giấy mời và các giấy tờ khác của Toà án liên
quan đến người tham gia tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp Toà án chuyển giao trực tiếp không được hoặc qua
bưu điện không có kết quả thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là Uỷ ban nhân dân cấp xã) nơi người tham gia tố tụng dân sự cư trú hoặc
cơ quan, tổ chức nơi người tham gia tố tụng dân sự làm việc có trách nhiệm
chuyển giao bản án, quyết định, giấy triệu tập, giấy mời và các giấy tờ khác
của Toà án liên quan đến người tham gia tố tụng dân sự khi có yêu cầu của Toà
án và phải thông báo kết quả việc chuyển giao đó cho Toà án biết.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng dân sự
theo quy định của Bộ luật này, góp phần vào việc giải quyết vụ việc dân sự tại
Toà án kịp thời, đúng pháp luật.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo
những việc làm trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự hoặc của bất
cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trong hoạt động tố tụng dân sự.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải
quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản về
kết quả giải quyết cho người đã khiếu nại, tố cáo biết.
THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN
Mục 1. NHỮNG VỤ VIỆC DÂN SỰ THUỘC THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CỦA TOÀ ÁN
Điều 25. Những tranh
chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
3. Tranh chấp về hợp đồng dân sự.
4. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 29 của Bộ luật này.
5. Tranh chấp về thừa kế tài sản.
6. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
7. Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy
định của pháp luật về đất đai.
8. Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định
của pháp luật.
9. Các tranh chấp khác về dân sự mà pháp luật có quy định.
1. Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực
hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
2. Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý
tài sản của người đó.
3. Yêu cầu tuyên bố một người mất tích, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một
người mất tích.
4. Yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, huỷ bỏ quyết định tuyên bố
một người là đã chết.
5. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về
dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của
Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định
về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài
mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
6. Các yêu cầu khác về dân sự mà pháp luật có quy định.
1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
2. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
3. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
4. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha,
mẹ.
5. Tranh chấp về cấp dưỡng.
6. Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy
định.
1. Yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
2. Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly
hôn.
3. Yêu cầu công nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con
sau khi ly hôn.
4. Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc
quyền thăm nom con sau khi ly hôn.
5. Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
6. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về
hôn nhân và gia đình của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết
định về hôn nhân và gia đình của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành
tại Việt Nam.
7. Các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao
gồm:
a) Mua bán hàng hoá;
b) Cung ứng dịch vụ;
c) Phân phối;
d) Đại diện, đại lý;
đ) Ký gửi;
e) Thuê, cho thuê, thuê mua;
g) Xây dựng;
h) Tư vấn, kỹ thuật;
i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ
nội địa;
k) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng;
n) Bảo hiểm;
o) Thăm dò, khai thác.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy
định.
1. Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết
các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
2. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết
định kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành
tại Việt Nam.
3. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh
doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài.
4. Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
1. Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng
lao động mà Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, hoà giải viên lao động của cơ
quan quản lý nhà nước về lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoà
giải không thành hoặc không giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy định,
trừ các tranh chấp sau đây không nhất thiết phải qua hoà giải tại cơ sở:
a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp
bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
b) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao
động; về trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
c) Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;
d) Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về lao động;
đ) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp xuất
khẩu lao động.
2. Tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng
lao động đã được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương giải quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý
với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động, bao gồm:
a) Về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và
các điều kiện lao động khác;
b) Về việc thực hiện thoả ước lao động tập thể;
c) Về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn.
3. Các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy định.
1. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
lao động của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định lao động
của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
2. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định lao động
của Trọng tài nước ngoài.
3. Các yêu cầu khác về lao động mà pháp luật có quy định.
Điều 33. Thẩm quyền
của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây
gọi chung là Toà án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục
sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25 và
Điều 27 của Bộ luật này;
b) Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại các điểm a, b, c,
d, đ, e, g, h và i khoản 1 Điều 29 của Bộ luật này;
c) Tranh chấp về lao động quy định tại khoản 1 Điều 31 của Bộ luật này.
2. Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu sau
đây:
a) Yêu cầu về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 26 của Bộ
luật này;
b) Yêu cầu về hôn nhân và gia đình quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và
5 Điều 28 của Bộ luật này.
3. Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này
mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ
quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện.
1. Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là Toà án nhân dân cấp tỉnh) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm những vụ việc sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này, trừ những
tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy định
tại khoản 1 Điều 33 của Bộ luật này;
b) Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những yêu cầu
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 2
Điều 33 của Bộ luật này;
c) Tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 33 của Bộ luật này.
2. Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện
quy định tại Điều 33 của Bộ luật này mà Toà án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để
giải quyết.
1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác
định như sau:
a) Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi
bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu
Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi
có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những
tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
c) Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp
về bất động sản.
2. Thẩm quyền giải quyết việc dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác
định như sau:
a) Toà án nơi người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự
hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cư trú, làm việc có thẩm quyền giải
quyết yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự;
b) Toà án nơi người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm vắng mặt tại nơi cư
trú, bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết có nơi cư trú cuối cùng có
thẩm quyền giải quyết yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú
và quản lý tài sản của người đó, yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã
chết;
c) Toà án đã ra quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết
có thẩm quyền giải quyết yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất tích hoặc là đã
chết;
d) Toà án nơi người phải thi hành bản án, quyết định dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án nước ngoài cư trú, làm
việc, nếu người phải thi hành án là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành án có
trụ sở, nếu người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên
quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài có thẩm quyền
giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án nước
ngoài;
đ) Toà án nơi người gửi đơn cư trú, làm việc, nếu người gửi đơn là cá
nhân hoặc nơi người gửi đơn có trụ sở, nếu người gửi đơn là cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền giải quyết yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án nước ngoài không
có yêu cầu thi hành tại Việt Nam;
e) Toà án nơi người phải thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài cư
trú, làm việc, nếu người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành
có trụ sở, nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên
quan đến việc thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài có thẩm quyền giải
quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài
nước ngoài;
g) Toà án nơi việc đăng ký kết hôn trái pháp luật được thực hiện có
thẩm quyền giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật;
h) Toà án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài
sản khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận
thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;
i) Toà án nơi một trong các bên thoả thuận về thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công
nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;
k) Toà án nơi cha hoặc mẹ của con chưa thành niên cư trú, làm việc có
thẩm quyền giải quyết yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn;
l) Toà án nơi cha, mẹ nuôi hoặc con nuôi cư trú, làm việc có thẩm quyền
giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi;
m) Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ giải quyết các yêu cầu liên quan
đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp được thực
hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
1. Nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp về dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong các trường hợp sau
đây:
a) Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc
nơi bị đơn có tài sản giải quyết;
b) Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì
nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi
nhánh giải quyết;
c) Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ
án về tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình
cư trú, làm việc giải quyết;
d) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn
có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc
gây thiệt hại giải quyết;
đ) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp
đồng lao động, bảo hiểm xã hội, quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền
lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác đối với người lao động thì
nguyên đơn là người lao động có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc
giải quyết;
e) Nếu tranh chấp phát sinh từ việc sử dụng lao động của người cai thầu
hoặc người có vai trò trung gian thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi người
sử dụng lao động là chủ chính cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi người cai
thầu, người có vai trò trung gian cư trú, làm việc giải quyết;
g) Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể
yêu cầu Toà án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết;
h) Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì
nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có
trụ sở giải quyết;
i) Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương
khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có một trong các bất động
sản giải quyết.
2. Người yêu cầu có quyền lựa chọn Toà án giải quyết yêu cầu về dân sự,
hôn nhân và gia đình trong các trường hợp sau đây:
a) Đối với các yêu cầu về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4
Điều 26 của Bộ luật này thì người yêu cầu có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư
trú, làm việc hoặc có trụ sở giải quyết;
b) Đối với yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật quy định tại khoản 1
Điều 28 của Bộ luật này thì người yêu cầu có thể yêu cầu Toà án nơi một trong
các bên đăng ký kết hôn trái pháp luật giải quyết;
c) Đối với yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn thì người yêu cầu có thể yêu cầu
Toà án nơi người con cư trú giải quyết.
1. Vụ việc dân sự đã được thụ lý mà không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án đã thụ lý thì Toà án đó ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự
cho Toà án có thẩm quyền và xoá sổ thụ lý. Quyết định này phải được gửi ngay
cho đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan có quyền khiếu nại
quyết định này trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết
định. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án
Toà án đã ra quyết định chuyển vụ việc dân sự phải giải quyết khiếu nại.
2. Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Toà án nhân dân cấp huyện trong
cùng một tỉnh do Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết.
3. Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Toà án nhân dân cấp huyện thuộc
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các Toà án nhân
dân cấp tỉnh do Chánh án Toà án nhân dân tối cao giải quyết.
1. Toà án có thể nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Toà án đó đã thụ lý riêng
biệt thành một vụ án để giải quyết nếu việc nhập và việc giải quyết trong cùng
một vụ án bảo đảm đúng pháp luật.
2. Toà án có thể tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc
nhiều vụ án nếu việc tách và việc giải quyết các vụ án được tách bảo đảm đúng
pháp luật.
3. Khi nhập hoặc tách vụ án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này,
Toà án đã thụ lý vụ án phải ra quyết định và gửi ngay cho các đương sự và Viện
kiểm sát cùng cấp.
CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG,
NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG VÀ VIỆC THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
Điều 39. Cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
1. Các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có:
a) Toà án nhân dân;
b) Viện kiểm sát nhân dân.
2. Những người tiến hành tố tụng gồm có:
a) Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án;
b) Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên.
1. Chánh án Toà án có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Tổ chức công tác giải quyết các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của
Toà án;
b) Quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ việc dân sự, Hội thẩm
nhân dân tham gia Hội đồng xét xử vụ án dân sự; quyết định phân công Thư ký Toà
án tiến hành tố tụng đối với vụ việc dân sự;
c) Quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án
trước khi mở phiên toà;
d) Quyết định thay đổi người giám định, người phiên dịch trước khi mở
phiên toà;
đ) Ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng dân sự theo quy
định của Bộ luật này;
e) Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Bộ luật này;
g) Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Toà án theo quy định của Bộ luật này.
2. Khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh án uỷ nhiệm thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án quy định tại khoản 1 Điều này. Phó Chánh
án chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao.
1. Tiến hành lập hồ sơ vụ án.
2. Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
3. Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự.
4. Tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải
quyết vụ án theo quy định của Bộ luật này; ra quyết định công nhận sự thoả
thuận của các đương sự.
5. Quyết định đưa vụ án dân sự ra xét xử, đưa việc dân sự ra giải
quyết.
6. Quyết định triệu tập những người tham gia phiên toà.
7. Tham gia xét xử các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự.
8. Tiến hành các hoạt động tố tụng khác khi giải quyết vụ việc dân sự
theo quy định của Bộ luật này.
1. Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên toà.
2. Đề nghị Chánh án Toà án, Thẩm phán ra các quyết định cần thiết thuộc
thẩm quyền.
3. Tham gia xét xử các vụ án dân sự.
4. Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc
thẩm quyền của Hội đồng xét xử khi xét xử vụ án dân sự.
1. Chuẩn bị các công tác nghiệp vụ cần thiết trước khi khai mạc phiên
toà.
2. Phổ biến nội quy phiên toà.
3. Báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được triệu tập đến
phiên toà.
4. Ghi biên bản phiên toà.
5. Thực hiện các hoạt động tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.
1. Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tố tụng dân sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây:
a) Tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động tố tụng dân sự;
b) Quyết định phân công Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng, tham gia phiên toà xét xử vụ án dân sự,
phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này;
c) Kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tố tụng của Kiểm sát viên;
d) Quyết định thay đổi Kiểm sát viên;
đ) Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án,
quyết định của Toà án theo quy định của Bộ luật này;
e) Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Bộ luật này.
2. Khi Viện trưởng vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ
nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng quy định tại khoản 1 Điều
này. Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ được giao.
Khi được phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng dân sự, Kiểm sát viên có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án
dân sự, giải quyết việc dân sự của Toà án;
2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
3. Kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án;
4. Tham gia phiên toà xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc
dân sự theo quy định của Bộ luật này và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về
việc giải quyết vụ việc dân sự;
5. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm
sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát.
Người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi
trong những trường hợp sau đây:
1. Họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương
sự;
2. Họ đã tham gia với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ
án đó;
3. Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm
vụ.
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị
thay đổi trong những trường hợp sau đây:
1. Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 46 của Bộ luật
này;
2. Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau;
3. Họ đã tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm vụ án đó, trừ trường hợp là thành viên của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao, Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh thì vẫn được tham gia xét
xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;
4. Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm
sát viên, Thư ký Toà án.
Kiểm sát viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong
những trường hợp sau đây:
1. Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 46 của Bộ luật
này;
2. Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án.
Thư ký Toà án phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong
những trường hợp sau đây:
1. Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 46 của Bộ luật
này;
2. Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án.
1. Việc từ chối tiến hành tố tụng hoặc đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng trước khi mở phiên toà phải được lập thành văn bản, trong đó nêu rõ lý
do và căn cứ của việc từ chối tiến hành tố tụng hoặc của việc đề nghị thay đổi
người tiến hành tố tụng.
2. Việc từ chối tiến hành tố tụng hoặc đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng tại phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên toà.
1. Trước khi mở phiên toà, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thư ký Toà án do Chánh án Toà án quyết định; nếu Thẩm phán bị thay đổi là Chánh
án Toà án thì do Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp quyết định.
Trước khi mở phiên toà, việc thay đổi Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện
kiểm sát cùng cấp quyết định; nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện
kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.
2. Tại phiên toà, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký
Toà án, Kiểm sát viên do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của
người bị yêu cầu thay đổi. Hội đồng xét xử thảo luận tại phòng nghị án và quyết
định theo đa số.
Trong trường hợp phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà
án, Kiểm sát viên thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà. Việc cử
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án thay thế người bị thay đổi do Chánh
án Toà án quyết định; nếu người bị thay đổi là Chánh án Toà án thì do Chánh án
Toà án cấp trên trực tiếp quyết định. Việc cử Kiểm sát viên thay thế Kiểm sát
viên bị thay đổi do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định; nếu Kiểm sát
viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp quyết định.
THÀNH PHẦN GIẢI QUYẾT VỤ
VIỆC DÂN SỰ
Điều 52. Thành phần
Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm
nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai
Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân.
Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự gồm ba Thẩm phán.
1. Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm Toà án nhân dân cấp tỉnh là Uỷ ban
thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Khi Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh tiến hành giám đốc thẩm,
tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai
phần ba tổng số thành viên tham gia.
2. Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm Toà chuyên trách Toà án nhân dân
tối cao gồm có ba Thẩm phán.
3. Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm Toà án nhân dân tối cao là Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Khi Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tiến hành giám đốc thẩm,
tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai
phần ba tổng số thành viên tham gia.
1. Những yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động quy định tại khoản 5 Điều 26, khoản 6 Điều 28, khoản 2 và khoản 3
Điều 30, Điều 32 của Bộ luật này hoặc việc xét kháng cáo, kháng nghị đối với
quyết định giải quyết việc dân sự do một tập thể gồm ba Thẩm phán giải quyết.
2. Những yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này do một Thẩm
phán giải quyết.
3. Thành phần giải quyết những yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy
định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật này được thực hiện theo quy định của pháp
luật về Trọng tài thương mại.
NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG
Mục 1. ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ
Điều 56. Đương sự
trong vụ án dân sự
1. Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
2. Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án
giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị
xâm phạm.
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu
cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình
phụ trách cũng là nguyên đơn.
3. Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án
giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
bị người đó xâm phạm.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người
tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương
sự khác đề nghị và được Toà án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư
cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trong trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền
lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia
tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Toà án phải
đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan.
1. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ
trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có
năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Toà án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân
sự.
3. Đương sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác.
4. Đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi
dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho những người này tại Toà án do người đại diện hợp pháp của họ
thực hiện.
5. Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Toà án do người đại
diện hợp pháp của họ thực hiện.
6. Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã
tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản
riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến
quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này, Toà án có quyền
triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc
khác, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ tại Toà án do người đại diện
hợp pháp của họ thực hiện.
7. Đương sự là cơ quan, tổ chức do người đại diện hợp pháp tham gia tố
tụng.
1. Các đương sự có các quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng.
2. Khi tham gia tố tụng, đương sự có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình;
b) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ
cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Toà án;
c) Đề nghị Toà án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình
không thể thực hiện được hoặc đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng, trưng
cầu giám định, định giá; khiếu nại với Viện kiểm sát về những chứng cứ mà Toà
án đã xác minh, thu thập do đương sự khác yêu cầu;
d) Được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự
khác xuất trình hoặc do Toà án thu thập;
đ) Đề nghị Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
e) Tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hoà giải
do Toà án tiến hành;
g) Nhận thông báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình;
h) Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
mình;
i) Tham gia phiên toà;
k) Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
theo quy định của Bộ luật này;
l) Đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với
nhau hoặc với nhân chứng;
m) Tranh luận tại phiên toà;
n) Được cấp trích lục bản án, quyết định của Toà án;
o) Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Toà án theo quy định của
Bộ luật này;
p) Phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ để
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật;
q) Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án và chấp hành các quyết
định của Toà án trong thời gian giải quyết vụ án;
r) Tôn trọng Toà án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà;
s) Nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật;
t) Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật;
u) Các quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.
1. Nguyên đơn có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 58 của Bộ luật
này;
b) Rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; thay đổi nội dung yêu
cầu khởi kiện;
c) Đề nghị Toà án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia
tố tụng;
d) Đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
2. Nguyên đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn
vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện.
1. Bị đơn có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 58 của Bộ luật
này;
b) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; bác bỏ toàn
bộ yêu cầu của nguyên đơn;
c) Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu
cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu;
d) Được Toà án thông báo về việc bị khởi kiện.
2. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì
Toà án giải quyết vắng mặt bị đơn.
1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có các quyền, nghĩa vụ sau
đây:
a) Các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 58 của Bộ luật này;
b) Có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn
hoặc với bên bị đơn.
2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì có các
quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 59 của Bộ luật này.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên
nguyên đơn hoặc chỉ có quyền lợi thì có các quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy
định tại Điều 59 của Bộ luật này.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên
bị đơn hoặc chỉ có nghĩa vụ thì có các quyền, nghĩa vụ của bị đơn quy định tại
Điều 60 của Bộ luật này.
1. Trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền,
nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng.
2. Trường hợp đương sự là cơ quan, tổ chức đang tham gia tố tụng phải
chấm dứt hoạt động, bị giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi
hình thức tổ chức thì việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự đó được xác
định như sau:
a) Trường hợp tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là công ty
cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh thì cá nhân, tổ chức là
thành viên của tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng;
b) Trường hợp cơ quan, tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là
cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp nhà nước thì đại diện hợp pháp của cơ quan,
tổ chức cấp trên của cơ quan, tổ chức đó hoặc đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ
chức được giao tiếp nhận các quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó tham gia
tố tụng;
c) Trường hợp tổ chức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình
thức tổ chức thì cá nhân, tổ chức nào tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của tổ chức đó
tham gia tố tụng.
3. Trường hợp đương sự là tổ chức không phải là pháp nhân mà người đại
diện hoặc người quản lý đang tham gia tố tụng chết thì tổ chức đó phải cử người
khác làm đại diện để tham gia tố tụng; nếu tổ chức đó phải chấm dứt hoạt động,
bị giải thể thì cá nhân là thành viên của tổ chức đó tham gia tố tụng.
Điều 63. Người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
1. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được
đương sự nhờ và được Toà án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự.
2. Những người sau đây được Toà án chấp nhận làm người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự:
a) Luật sư tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật về luật sư;
b) Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chưa bị kết án
hoặc bị kết án nhưng đã được xoá án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục và quản
chế hành chính; không phải là cán bộ, công chức trong các ngành Toà án, Kiểm
sát, Công an.
3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền và
lợi ích hợp pháp của những người đó không đối lập nhau. Nhiều người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể cùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của một đương sự trong vụ án.
1. Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong
quá trình tố tụng dân sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
được tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Toà án xét thấy cần thiết.
2. Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên
cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ
sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
3. Tham gia việc hoà giải, tham gia phiên toà hoặc có văn bản bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
4. Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.
5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ.
6. Các quyền, nghĩa vụ quy định tại các điểm m, q và r khoản 2 Điều 58
của Bộ luật này.
Người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ án có thể được
Toà án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Người mất
năng lực hành vi dân sự không thể là người làm chứng.
1. Cung cấp toàn bộ những thông tin, tài liệu, đồ vật mà mình có được
có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
2. Khai báo trung thực những tình tiết mà mình biết được có liên quan
đến việc giải quyết vụ án.
3. Được từ chối khai báo nếu lời khai của mình liên quan đến bí mật nhà
nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư hoặc việc khai báo
đó có ảnh hưởng xấu, bất lợi cho đương sự là người có quan hệ thân thích với
mình.
4. Được nghỉ việc trong thời gian Toà án triệu tập hoặc lấy lời khai,
nếu làm việc trong cơ quan, tổ chức.
5. Được hưởng các khoản phí đi lại và các chế độ khác theo quy định của
pháp luật.
6. Yêu cầu Toà án đã triệu tập, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền và lợi ích hợp
pháp khác của mình khi tham gia tố tụng; khiếu nại hành vi tố tụng của người
tiến hành tố tụng.
7. Bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm trước pháp luật do những
lời khai báo sai sự thật gây thiệt hại cho đương sự hoặc cho người khác.
8. Phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, nếu việc
lấy lời khai của người làm chứng phải thực hiện công khai tại phiên toà; trường
hợp người làm chứng không đến phiên toà mà không có lý do chính đáng và việc
vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc xét xử thì Hội đồng xét xử có thể ra
quyết định dẫn giải người làm chứng đến phiên toà.
9. Phải cam đoan trước Toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của
mình, trừ người làm chứng là người chưa thành niên. Người làm chứng khai báo
gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, từ chối khai báo hoặc khi được Toà án
triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo
quy định của pháp luật.
Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy
định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định được các bên đương sự
thoả thuận lựa chọn hoặc được Toà án trưng cầu để giám định đối tượng đó theo
yêu cầu của một hoặc các bên đương sự.
1. Người giám định có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Được đọc các tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến đối tượng
giám định; yêu cầu Toà án cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc giám định;
b) Đặt câu hỏi đối với người tham gia tố tụng về những vấn đề có liên
quan đến đối tượng giám định;
c) Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, trả lời những vấn đề
liên quan đến việc giám định và kết luận giám định một cách trung thực, có căn
cứ, khách quan;
d) Phải thông báo bằng văn bản cho Toà án biết về việc không thể giám
định được do việc cần giám định vượt quá khả năng chuyên môn, tài liệu cung cấp
phục vụ cho việc giám định không đủ hoặc không sử dụng được;
đ) Phải bảo quản tài liệu đã nhận và gửi trả lại Toà án cùng với kết
luận giám định hoặc cùng với thông báo về việc không thể giám định được;
e) Không được tự mình thu thập tài liệu để tiến hành giám định, tiếp
xúc với những người tham gia tố tụng khác nếu việc tiếp xúc đó làm ảnh hưởng
đến kết quả giám định; không được tiết lộ bí mật thông tin mà mình biết khi
tiến hành giám định hoặc thông báo kết quả giám định cho người khác, trừ trường
hợp Thẩm phán quyết định trưng cầu giám định;
g) Được hưởng các khoản phí đi lại và các chế độ khác theo quy định của
pháp luật;
h) Phải cam đoan trước Toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của
mình.
2. Người giám định từ chối kết luận giám định mà không có lý do chính
đáng hoặc kết luận giám định sai sự thật hoặc khi được Toà án triệu tập mà vắng
mặt không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp
luật.
3. Người giám định phải từ chối hoặc bị thay đổi trong những trường hợp
sau đây:
a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3
Điều 46 của Bộ luật này;
b) Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch trong cùng vụ án đó;
c) Họ đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên.
Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra
tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử
dụng được tiếng Việt. Người phiên dịch được các bên đương sự thoả thuận lựa
chọn và được Toà án chấp nhận hoặc được Toà án yêu cầu để phiên dịch.
1. Người phiên dịch có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;
b) Phải phiên dịch trung thực, khách quan, đúng nghĩa;
c) Đề nghị người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng giải thích
thêm lời nói cần phiên dịch;
d) Không được tiếp xúc với những người tham gia tố tụng khác nếu việc
tiếp xúc đó làm ảnh hưởng đến tính trung thực, khách quan, đúng nghĩa khi phiên
dịch;
đ) Được hưởng các khoản phí đi lại và các chế độ khác theo quy định của
pháp luật;
e) Phải cam đoan trước Toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của
mình.
2. Người phiên dịch cố ý dịch sai sự thật hoặc khi được Toà án triệu
tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy
định của pháp luật.
3. Người phiên dịch phải từ chối hoặc bị thay đổi trong những trường
hợp sau đây:
a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3
Điều 46 của Bộ luật này;
b) Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định trong cùng vụ án đó;
c) Họ đã tiến hành tố tụng với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thư ký Toà án, Kiểm sát viên.
4. Những quy định của Điều này cũng được áp dụng đối với người biết dấu
hiệu của người câm, người điếc.
Trong trường hợp chỉ có người đại diện hoặc người thân thích của người
câm, người điếc biết được dấu hiệu của họ thì người đại diện hoặc người thân thích
có thể được Toà án chấp nhận làm phiên dịch cho người câm, người điếc đó.
Điều 71. Thủ tục từ chối giám định, phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám
định, người phiên dịch
1. Việc từ chối giám định, phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám
định, người phiên dịch trước khi mở phiên toà phải được lập thành văn bản nêu
rõ lý do của việc từ chối hoặc đề nghị thay đổi.
2. Việc từ chối giám định, phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám
định, người phiên dịch tại phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên toà.
1. Trước khi mở phiên toà, việc thay đổi người giám định, người phiên
dịch do Chánh án Toà án quyết định.
2. Tại phiên toà, việc thay đổi người giám định, người phiên dịch do
Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi.
Hội đồng xét xử thảo luận tại phòng nghị án và quyết định theo đa số.
Trong trường hợp phải thay đổi người giám định, người phiên dịch thì
Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà. Việc trưng cầu người giám định
khác hoặc thay người phiên dịch khác được thực hiện theo quy định tại Điều 67
và Điều 69 của Bộ luật này.
1. Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp
luật và người đại diện theo uỷ quyền.
2. Người đại diện theo pháp luật được quy định trong Bộ luật dân sự là
người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế
quyền đại diện theo quy định của pháp luật.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác cũng là đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của người
được bảo vệ.
3. Người đại diện theo uỷ quyền được quy định trong Bộ luật dân sự là
người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự; đối với việc ly hôn, đương
sự không được uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng.
1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện các
quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự mà mình là đại diện.
2. Người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các
quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản uỷ quyền.
1. Những người sau đây không được làm người đại diện theo pháp luật:
a) Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ án với người được đại diện
mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của
người được đại diện;
b) Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự
cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với
quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp
đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự.
3. Cán bộ, công chức trong các ngành Toà án, Kiểm sát, Công an không
được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố
tụng với tư cách người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người
đại diện theo pháp luật.
Trong khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo
pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 75
của Bộ luật này thì Toà án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng tại
Toà án.
Người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo uỷ quyền trong tố
tụng dân sự chấm dứt việc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự.
1. Trong trường hợp chấm dứt đại diện theo pháp luật mà người được đại
diện đã thành niên hoặc đã khôi phục năng lực hành vi dân sự thì người đó tự
mình tham gia tố tụng dân sự hoặc uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng dân
sự theo thủ tục do Bộ luật này quy định.
2. Trong trường hợp chấm dứt đại diện theo uỷ quyền thì đương sự hoặc
người thừa kế của đương sự trực tiếp tham gia tố tụng hoặc uỷ quyền cho người
khác đại diện tham gia tố tụng theo thủ tục do Bộ luật này quy định.
CHỨNG MINH VÀ CHỨNG CỨ
Điều 79. Nghĩa vụ
chứng minh
1. Đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng
minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.
3. Cá nhân, cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích
của Nhà nước hoặc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp.
4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra
được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc
không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.
1. Những tình tiết, sự kiện sau đây không phải chứng minh:
a) Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Toà
án thừa nhận;
b) Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án, quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật;
c) Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công
chứng, chứng thực hợp pháp.
2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự
kiện mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh.
3. Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của
người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự.
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Toà án dùng làm căn cứ để xác
định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không
cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc
dân sự.
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được;
2. Các vật chứng;
3. Lời khai của đương sự;
4. Lời khai của người làm chứng;
5. Kết luận giám định;
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
7. Tập quán;
8. Kết quả định giá tài sản;
9. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
1. Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính
hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền cung cấp, xác nhận.
2. Các tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất
trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc
liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
3. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
4. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là
chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa
ghi hình theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên toà.
5. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được
tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc
thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và có chữ ký
của các thành viên tham gia thẩm định.
7. Tập quán được coi là chứng cứ nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó
thừa nhận.
8. Kết quả định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá được
tiến hành theo thủ tục do pháp luật quy định hoặc văn bản do chuyên gia về giá
cả cung cấp theo quy định tại khoản 1 Điều này.
1. Trong quá trình Toà án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền
và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Toà án; nếu đương sự không nộp hoặc nộp không
đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Việc đương sự giao nộp chứng cứ cho Toà án phải được lập biên bản về
việc giao nhận chứng cứ. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội
dung, đặc điểm của chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận;
chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Toà
án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự và
một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ giữ.
3. Đương sự giao nộp cho Toà án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số,
tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng
thực hợp pháp.
1. Trong trường hợp xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự
chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung
chứng cứ.
2. Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ
và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây
để thu thập chứng cứ:
a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;
b) Trưng cầu giám định;
c) Quyết định định giá tài sản;
d) Xem xét, thẩm định tại chỗ;
đ) Uỷ thác thu thập chứng cứ;
e) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe
được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân
sự.
3. Khi tiến hành các biện pháp quy định tại các điểm b, c, d, đ và e
khoản 2 Điều này, Thẩm phán phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu
cầu của Toà án.
Đương sự có quyền khiếu nại quyết định áp dụng biện pháp thu thập chứng
cứ của Toà án. Khiếu nại của đương sự phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát.
Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ trên cơ sở
khiếu nại của đương sự và xem xét việc tham gia phiên toà.
Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá
nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc
thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái
thẩm.
1. Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa
có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết
bản khai và ký tên của mình. Trong trường hợp đương sự không thể tự viết được
thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập
trung vào những tình tiết mà đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự
mình hoặc Thư ký Toà án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản. Thẩm phán lấy
lời khai của đương sự tại trụ sở Toà án, trong trường hợp cần thiết có thể lấy
lời khai của đương sự ngoài trụ sở Toà án.
2. Biên bản ghi lời khai của đương sự phải được người khai tự đọc lại
hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ. Đương sự có quyền yêu cầu ghi những
sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận.
Biên bản phải có chữ ký của người lấy lời khai, người ghi biên bản và đóng dấu
của Toà án; nếu biên bản được ghi thành nhiều trang rời nhau thì phải ký vào
từng trang và đóng dấu giáp lai. Trường hợp biên bản ghi lời khai của đương sự
được lập ngoài trụ sở Toà án thì phải có người làm chứng hoặc xác nhận của Uỷ
ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên
bản.
3. Việc lấy lời khai của đương sự thuộc một trong các trường hợp quy
định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 57 của Bộ luật này phải được tiến hành với sự
có mặt của người đại diện hợp pháp của đương sự đó.
1. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán
tiến hành lấy lời khai của người làm chứng tại trụ sở Toà án hoặc ngoài trụ sở
Toà án.
2. Thủ tục lấy lời khai của người làm chứng được tiến hành như việc lấy
lời khai của đương sự quy định tại khoản 2 Điều 86 của Bộ luật này.
3. Việc lấy lời khai của người làm chứng chưa đủ mười tám tuổi, người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải được tiến hành với sự có mặt của người
đại diện theo pháp luật hoặc người đang thực hiện việc quản lý, trông nom người
đó.
1. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong
lời khai của các đương sự, người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa
các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người
làm chứng với nhau.
2. Việc đối chất phải được ghi thành biên bản, có chữ ký của những
người tham gia đối chất.
1. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải do Thẩm phán tiến hành với sự
có mặt của đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối
tượng cần xem xét, thẩm định và phải báo trước việc xem xét, thẩm định tại chỗ
để đương sự biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định đó.
2. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải được ghi thành biên bản. Biên
bản phải ghi rõ kết quả xem xét, thẩm định, mô tả rõ hiện trường, có chữ ký của
người xem xét, thẩm định và chữ ký hoặc điểm chỉ của đương sự nếu họ có mặt,
của đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần
xem xét, thẩm định và những người khác được mời tham gia việc xem xét, thẩm
định. Sau khi lập xong biên bản, người xem xét, thẩm định phải yêu cầu đại diện
Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm
định ký tên và đóng dấu xác nhận.
1. Theo sự thoả thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu
của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định.
Trong quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám
định, đối tượng cần giám định, những vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể
cần có kết luận của người giám định.
2. Người giám định nhận được quyết định trưng cầu giám định phải tiến
hành giám định theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng
hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm
phán ra quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại. Việc giám định lại có
thể do người đã tiến hành giám định trước đó thực hiện hoặc do tổ chức chuyên
môn khác thực hiện theo quy định của pháp luật.
1. Trong trường hợp chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì người đưa ra
chứng cứ đó có quyền rút lại; nếu không rút lại, người tố cáo có quyền yêu cầu
Toà án trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 90 của Bộ luật này.
2. Trường hợp việc giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm thì Toà án
chuyển cho Cơ quan điều tra hình sự có thẩm quyền.
3. Người đưa ra chứng cứ giả mạo phải bồi thường thiệt hại nếu việc giả
mạo chứng cứ đó gây thiệt hại cho người khác.
1. Toà án ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp trong các
trường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;
b) Các bên thoả thuận theo mức giá thấp nhằm mục đích trốn thuế hoặc
giảm mức đóng án phí.
2. Hội đồng định giá do Toà án quyết định thành lập gồm Chủ tịch Hội
đồng và các thành viên là đại diện cơ quan tài chính và các cơ quan chuyên môn
có liên quan. Hội đồng định giá chỉ tiến hành định giá khi có mặt đầy đủ các
thành viên của Hội đồng. Trong trường hợp cần thiết, đại diện Uỷ ban nhân dân
cấp xã nơi có tài sản định giá được mời chứng kiến việc định giá. Các đương sự
được thông báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành định giá, có quyền tham
dự và phát biểu ý kiến về việc định giá. Quyền quyết định về giá đối với tài
sản định giá thuộc Hội đồng định giá.
3. Cơ quan tài chính và các cơ quan chuyên môn có liên quan có trách
nhiệm cử người tham gia Hội đồng định giá và tạo điều kiện để họ làm nhiệm vụ.
Người được cử làm thành viên Hội đồng định giá có trách nhiệm tham gia đầy đủ
vào việc định giá.
4. Việc định giá phải được ghi thành biên bản, trong đó ghi rõ ý kiến
của từng thành viên, của đương sự nếu họ tham dự. Quyết định của Hội đồng định
giá phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. Các thành viên
Hội đồng định giá, đương sự, người chứng kiến ký tên vào biên bản.
1. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Toà án có thể ra quyết
định uỷ thác để Toà án khác hoặc cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 4
Điều này lấy lời khai của đương sự, của người làm chứng, thẩm định tại chỗ,
định giá tài sản hoặc các biện pháp khác để thu thập chứng cứ, xác minh các
tình tiết của vụ việc dân sự.
2. Trong quyết định uỷ thác phải ghi rõ tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị
đơn, quan hệ tranh chấp và những công việc cụ thể uỷ thác để thu thập chứng cứ.
3. Toà án nhận được quyết định uỷ thác có trách nhiệm thực hiện công
việc cụ thể được uỷ thác trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được
quyết định uỷ thác và thông báo kết quả bằng văn bản cho Toà án đã ra quyết
định uỷ thác; trường hợp không thực hiện được việc uỷ thác thì phải thông báo
bằng văn bản nêu rõ lý do của việc không thực hiện được việc uỷ thác cho Toà án
đã ra quyết định uỷ thác.
4. Trong trường hợp việc thu thập chứng cứ phải tiến hành ở ngoài lãnh
thổ Việt Nam thì Toà án làm thủ tục uỷ thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam hoặc các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự của nước ngoài mà nước đó và
Việt Nam đã ký kết hiệp định tương trợ tư pháp hoặc cùng Việt Nam gia nhập điều
ước quốc tế có quy định về vấn đề này.
1. Trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu
thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Toà án
tiến hành thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự
đúng đắn.
Đương sự yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ phải làm đơn ghi rõ
vấn đề cần chứng minh; chứng cứ cần thu thập; lý do vì sao tự mình không thu
thập được; họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang
quản lý, lưu giữ chứng cứ cần thu thập đó.
2. Toà án có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan,
tổ chức đang quản lý, lưu giữ cung cấp cho mình chứng cứ.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm
cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Toà án trong thời hạn mười
lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
1. Chứng cứ đã được giao nộp tại Toà án thì việc bảo quản chứng cứ đó
do Toà án chịu trách nhiệm.
2. Chứng cứ không thể giao nộp được tại Toà án thì người đang lưu giữ
chứng cứ đó có trách nhiệm bảo quản.
3. Trong trường hợp cần giao chứng cứ cho người thứ ba bảo quản thì
Thẩm phán ra quyết định và lập biên bản giao cho người đó bảo quản. Người nhận
bảo quản phải ký tên vào biên bản, được hưởng thù lao và phải chịu trách nhiệm
về việc bảo quản chứng cứ đó.
1. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính
xác.
2. Toà án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ
và khẳng định giá trị pháp lý của từng chứng cứ.
1. Mọi chứng cứ được công bố và sử dụng công khai như nhau, trừ trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Toà án không công bố công khai chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà
nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí
mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự.
3. Người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải giữ bí mật theo
quy định của pháp luật những chứng cứ thuộc trường hợp không công bố công khai
quy định tại khoản 2 Điều này.
1. Trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ
hoặc sau này khó có thể thu thập được thì đương sự có quyền làm đơn đề nghị Toà
án quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ. Toà án có
thể quyết định áp dụng một hoặc một số trong các biện pháp niêm phong, thu giữ,
chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phục chế, khám nghiệm, lập biên bản và các biện
pháp khác.
2. Trong trường hợp người làm chứng bị đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc
để không cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì Toà án có
quyền quyết định buộc người có hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc phải
chấm dứt hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc người làm chứng. Trường hợp
hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc có dấu hiệu tội phạm thì Toà án yêu
cầu Viện kiểm sát xem xét về trách nhiệm hình sự.
CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM
THỜI
Điều 99. Quyền yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp
của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 162 của Bộ luật
này có quyền yêu cầu Toà án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều
biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này để tạm thời
giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng
hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành
án.
2. Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng
chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này đồng thời với việc
nộp đơn khởi kiện cho Toà án đó.
3. Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong trường hợp quy định tại Điều 119 của Bộ luật này.
1. Việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi
mở phiên toà do một Thẩm phán xem xét, quyết định.
2. Việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên
toà do Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
1. Người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trong trường hợp yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.
2. Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt
hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì
Toà án phải bồi thường nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Toà án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
b) Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn
cấp tạm thời mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu;
c) Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
1. Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.
3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính
mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.
4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi
thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
5. Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động.
6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.
7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.
9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác.
10. Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc
nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ.
11. Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ.
12. Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định.
13. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.
Điều 103. Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục
Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan
đến người chưa thành niên chưa có người giám hộ.
Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng được áp dụng nếu việc
giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu cấp dưỡng và xét thấy yêu cầu đó là
có căn cứ và nếu không thực hiện trước ngay một phần nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ ảnh
hưởng đến sức khoẻ, đời sống của người được cấp dưỡng.
Điều 105. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính
mạng, sức khoẻ bị xâm phạm
Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính
mạng, sức khoẻ bị xâm phạm được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan
đến yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm và xét
thấy yêu cầu đó là có căn cứ và cần thiết.
Điều 106. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi
thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động
Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi
thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động được
áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu trả tiền lương, tiền
công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp và xét
thấy yêu cầu đó là có căn cứ và cần thiết.
Tạm đình chỉ thi hành quyết định sa thải người lao động được áp dụng
nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến sa thải người lao động và xét thấy
quyết định sa thải người lao động là trái pháp luật hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng
đến đời sống của người lao động.
1. Kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình
giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành
vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản.
2. Tài sản bị kê biên có thể được thu giữ, bảo quản tại cơ quan thi
hành án hoặc lập biên bản giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý
cho đến khi có quyết định của Toà án.
Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp được
áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang
chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài
sản đối với tài sản đang tranh chấp cho người khác.
Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong
quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài
sản đang tranh chấp có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi
khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó.
Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác được áp
dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có tài sản đang tranh chấp hoặc liên
quan đến tranh chấp mà có hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác ở thời kỳ thu
hoạch hoặc không thể bảo quản được lâu dài.
Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà
nước được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người
có nghĩa vụ có tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước
và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án
hoặc bảo đảm cho việc thi hành án.
Phong toả tài sản ở nơi gửi giữ được áp dụng nếu trong quá trình giải
quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản đang gửi giữ và
việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án
hoặc bảo đảm cho việc thi hành án.
Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ được áp dụng nếu trong quá
trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc
áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc
bảo đảm cho việc thi hành án.
Cấm hoặc buộc thực hiện một số hành vi nhất định được áp dụng nếu trong
quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy đương sự hoặc cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác thực hiện hoặc không thực hiện một số hành vi nhất định làm ảnh
hưởng đến việc giải quyết vụ án hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
có liên quan trong vụ án đang được Toà án giải quyết.
Trong trường hợp do pháp luật quy định, Toà án có trách nhiệm giải
quyết yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời ngoài những trường hợp
quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 102 của Bộ
luật này.
1. Người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải làm
đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm viết đơn;
b) Tên, địa chỉ của người có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời;
c) Tên, địa chỉ của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời;
d) Tóm tắt nội dung tranh chấp hoặc hành vi xâm hại quyền và lợi ích
hợp pháp của mình;
đ) Lý do cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
e) Biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể.
Tuỳ theo yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu
phải cung cấp cho Toà án chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.
2. Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy
định tại khoản 1 Điều 99 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công giải quyết
vụ án phải xem xét, giải quyết. Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận đơn, nếu
người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó
thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 120 của Bộ luật này thì Thẩm phán
phải ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; trường hợp không
chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho
người yêu cầu biết.
Trường hợp Hội đồng xét xử nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời tại phiên toà thì Hội đồng xét xử xem xét ra quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời ngay hoặc sau khi người yêu cầu đã thực hiện xong biện
pháp bảo đảm quy định tại Điều 120 của Bộ luật này.
3. Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy
định tại khoản 2 Điều 99 của Bộ luật này thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng
với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Toà án chỉ định ngay một Thẩm
phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận
được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo
bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.
4. Trong trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại
khoản 10, khoản 11 Điều 102 của Bộ luật này thì chỉ được phong toả tài khoản,
tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện.
Điều 118. Kiến nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan, tổ chức
khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích của người khác
Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích của người
khác quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 162 của Bộ luật này kiến nghị Toà án
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bằng văn bản trong đó phải nêu rõ lý do
kiến nghị Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; biện pháp khẩn cấp tạm
thời cần được áp dụng; tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích hợp pháp cần
được bảo vệ; tên, địa chỉ của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời; tóm tắt nội dung tranh chấp hoặc hành vi xâm hại quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự; chứng cứ để chứng minh cho việc kiến nghị của mình là có căn
cứ và hợp pháp.
Toà án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy
định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 102 của Bộ luật này trong trường hợp
đương sự không có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
1. Người yêu cầu Toà án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm
thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 102 của Bộ luật này phải gửi
một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Toà án ấn định nhưng
phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để
bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự
lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có
quyền yêu cầu.
Đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 99 của Bộ luật này thì
thời hạn thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại Điều này không được quá 48
giờ, kể từ thời điểm nộp đơn yêu cầu.
2. Khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá phải được gửi
vào tài khoản phong toả tại ngân hàng nơi có trụ sở của Toà án quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thời hạn do Toà án ấn định.
Trong trường hợp thực hiện biện pháp bảo đảm vào ngày lễ hoặc ngày nghỉ
thì khoản tiền bảo đảm được gửi giữ tại Toà án. Toà án phải làm thủ tục giao
nhận và gửi ngay khoản tiền đó vào ngân hàng vào ngày làm việc tiếp theo.
Khi xét thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời đang được áp dụng không còn
phù hợp mà cần thiết phải thay đổi hoặc áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm
thời khác thì thủ tục thay đổi, áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời
khác được thực hiện theo quy định tại Điều 117 của Bộ luật này.
1. Toà án ra ngay quyết định huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được
áp dụng khi có một trong các trường hợp sau đây:
a) Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị huỷ bỏ;
b) Người phải thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
nộp tài sản hoặc có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ
đối với bên có yêu cầu;
c) Nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của Bộ
luật dân sự.
2. Trong trường hợp huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, Toà án phải xem
xét, quyết định để người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhận lại
khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá bảo đảm quy định tại Điều
120 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 101 của Bộ luật
này.
1. Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời có
hiệu lực thi hành ngay.
2. Toà án phải cấp hoặc gửi quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời ngay sau khi ra quyết định cho người có yêu cầu, người
bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan,
cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền và Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều 124. Khiếu nại, kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ hoặc
không áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh
án Toà án đang giải quyết vụ án về quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời hoặc việc Thẩm phán không ra quyết định áp dụng, thay
đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Thời hạn khiếu nại, kiến nghị là ba
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời hoặc trả lời của Thẩm phán về việc không ra quyết định
áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Điều 125. Giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ
bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Chánh án Toà án phải xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị quy
định tại Điều 124 của Bộ luật này trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được khiếu nại, kiến nghị.
2. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án là quyết
định cuối cùng và phải được cấp hoặc gửi ngay theo quy định tại khoản 2 Điều
123 của Bộ luật này.
3. Tại phiên toà, việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị thuộc thẩm quyền
của Hội đồng xét xử. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Hội đồng
xét xử là quyết định cuối cùng.
1. Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
2. Trong trường hợp quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì đương sự có nghĩa vụ nộp bản sao
quyết định cho cơ quan quản lý đăng ký quyền sở hữu.
ÁN PHÍ, LỆ PHÍ VÀ CÁC CHI
PHÍ TỐ TỤNG KHÁC
Mục 1. ÁN PHÍ, LỆ PHÍ
Điều 127. Tiền tạm
ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí
1. Tiền tạm ứng án phí bao gồm tiền tạm ứng án phí sơ thẩm và tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm.
2. Án phí bao gồm án phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm.
3. Lệ phí bao gồm lệ phí cấp bản sao bản án, quyết định và các giấy tờ
khác của Toà án, lệ phí nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự, lệ phí
giải quyết việc dân sự và các khoản lệ phí khác mà pháp luật có quy định.
1. Toàn bộ án phí, lệ phí thu được phải nộp đầy đủ, kịp thời vào ngân
sách nhà nước tại kho bạc nhà nước.
2. Tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí được nộp cho cơ quan thi
hành án có thẩm quyền để gửi vào tài khoản tạm giữ mở tại kho bạc nhà nước và
được rút ra để thi hành án theo quyết định của Toà án.
3. Người đã nộp tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí phải chịu án
phí, lệ phí thì ngay sau khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực thi
hành, số tiền tạm ứng đã thu được phải được nộp vào ngân sách nhà nước.
Trong trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí
được hoàn trả một phần hoặc toàn bộ số tiền đã nộp theo bản án, quyết định của
Toà án thì cơ quan thi hành án đã thu tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí
phải làm thủ tục trả lại tiền cho họ.
4. Trong trường hợp việc giải quyết vụ việc dân sự bị tạm đình chỉ thì
tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí đã nộp được xử lý khi vụ việc được
tiếp tục giải quyết.
Việc thu tiền tạm ứng án phí và án phí, tiền tạm ứng lệ phí và lệ phí;
việc chi trả tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí phải được thực hiện theo
quy định của pháp luật.
1. Nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trong vụ án dân sự phải nộp
tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp
tiền tạm ứng án phí.
2. Người nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự phải nộp tiền
tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự đó, trừ trường hợp không phải nộp tiền
tạm ứng lệ phí.
1. Đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Toà
án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn nộp án phí sơ thẩm hoặc không phải nộp
án phí sơ thẩm.
2. Trong trường hợp các bên đương sự không tự xác định được phần tài
sản của mình trong khối tài sản chung và có yêu cầu Toà án giải quyết chia tài
sản chung đó thì mỗi bên đương sự phải nộp án phí sơ thẩm tương ứng với giá trị
phần tài sản mà họ được hưởng.
3. Trước khi mở phiên toà, Toà án tiến hành hoà giải nếu các bên đương
sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50%
mức án phí sơ thẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
4. Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải nộp án phí sơ thẩm, không phụ
thuộc vào việc Toà án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Trong trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một
nửa án phí sơ thẩm.
5. Trong vụ án có đương sự được miễn nộp án phí sơ thẩm thì đương sự
khác vẫn phải nộp án phí sơ thẩm mà mình phải chịu theo quy định tại các khoản
1, 2, 3 và 4 Điều này.
6. Trong trường hợp vụ án bị tạm đình chỉ giải quyết thì nghĩa vụ nộp
án phí sơ thẩm được quyết định khi vụ án được tiếp tục giải quyết theo quy định
tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này.
1. Đương sự kháng cáo phải nộp án phí phúc thẩm, nếu Toà án cấp phúc
thẩm giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, trừ trường hợp được
miễn hoặc không phải nộp án phí phúc thẩm.
2. Trong trường hợp Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án, quyết định sơ thẩm
bị kháng cáo thì đương sự kháng cáo không phải nộp án phí phúc thẩm; Toà án cấp
phúc thẩm phải xác định lại nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm theo quy định tại Điều
131 của Bộ luật này.
3. Trong trường hợp Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án, quyết định sơ thẩm
bị kháng cáo để xét xử sơ thẩm lại thì đương sự kháng cáo không phải nộp án phí
phúc thẩm; nghĩa vụ nộp án phí được xác định lại khi giải quyết sơ thẩm lại vụ
án.
Nghĩa vụ nộp lệ phí được xác định tuỳ theo từng loại việc dân sự cụ thể
và do pháp luật quy định.
án phí, mức án phí đối với mỗi loại vụ án cụ thể, các loại lệ phí, mức
lệ phí cụ thể, các trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án
phí, tiền tạm ứng lệ phí, các trường hợp được miễn hoặc không phải nộp án phí,
lệ phí và các vấn đề cụ thể khác liên quan đến án phí, lệ phí chưa được quy
định trong Bộ luật này do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
Điều 135. Tiền tạm
ứng chi phí giám định, chi phí giám định
1. Tiền tạm ứng chi phí giám định là số tiền tổ chức, cá nhân được Toà
án trưng cầu giám định tạm tính để tiến hành việc giám định theo quyết định của
Toà án.
2. Chi phí giám định là số tiền cần thiết và hợp lý phải chi trả cho
công việc giám định và do tổ chức, cá nhân thực hiện việc giám định tính căn cứ
vào quy định của pháp luật.
1. Người yêu cầu trưng cầu giám định phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám
định, trừ trường hợp các bên đương sự có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác.
2. Trong trường hợp các bên đương sự thoả thuận lựa chọn tổ chức giám
định hoặc cùng yêu cầu về cùng một đối tượng trưng cầu giám định thì mỗi bên
đương sự phải nộp một nửa số tiền tạm ứng chi phí giám định, trừ trường hợp các
bên đương sự có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
1. Trong trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định không
phải nộp chi phí giám định thì người phải nộp chi phí giám định theo quyết định
của Toà án phải hoàn trả cho người đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định.
2. Trong trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định phải
nộp chi phí giám định, nếu số tiền tạm ứng đã nộp chưa đủ cho chi phí giám định
thực tế thì họ phải nộp thêm phần tiền còn thiếu đó; nếu số tiền tạm ứng đã nộp
cao hơn chi phí giám định thực tế thì họ được trả lại phần tiền còn thừa đó.
Trong trường hợp các bên đương sự không có thoả thuận khác hoặc pháp
luật không có quy định khác thì nghĩa vụ nộp tiền chi phí giám định được xác
định như sau:
1. Người yêu cầu trưng cầu giám định phải nộp tiền chi phí giám định,
nếu kết quả giám định chứng minh yêu cầu của người đó là không có căn cứ;
2. Người không chấp nhận yêu cầu trưng cầu giám định phải nộp tiền chi
phí giám định, nếu kết quả giám định chứng minh yêu cầu của người yêu cầu trưng
cầu giám định là có căn cứ.
1. Tiền tạm ứng chi phí định giá là số tiền mà Hội đồng định giá tạm
tính để tiến hành việc định giá theo quyết định của Toà án.
2. Chi phí định giá là số tiền cần thiết và hợp lý phải chi trả cho
công việc định giá và do Hội đồng định giá tính căn cứ vào quy định của pháp
luật.
1. Người yêu cầu định giá phải nộp tiền tạm ứng chi phí định giá, trừ
trường hợp các bên đương sự có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
2. Trong trường hợp các bên đương sự không thống nhất được về giá mà
yêu cầu Toà án định giá hoặc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 92 của
Bộ luật này thì mỗi bên đương sự phải nộp một nửa số tiền tạm ứng chi phí định
giá.
1. Trong trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng chi phí định giá không
phải nộp chi phí định giá thì người phải nộp chi phí định giá theo quyết định
của Toà án phải hoàn trả cho người đã nộp tiền tạm ứng chi phí định giá.
2. Trong trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng chi phí định giá phải nộp
chi phí định giá, nếu số tiền tạm ứng đã nộp chưa đủ cho chi phí định giá thực
tế thì họ phải nộp thêm phần tiền còn thiếu đó; nếu số tiền tạm ứng đã nộp cao
hơn chi phí định giá thực tế thì họ được trả lại phần tiền còn thừa đó.
Trong trường hợp các bên đương sự không có thoả thuận khác hoặc pháp
luật không có quy định khác thì nghĩa vụ nộp tiền chi phí định giá được xác
định như sau:
1. Người yêu cầu định giá phải nộp tiền chi phí định giá, nếu kết quả
định giá chứng minh yêu cầu của người đó là không có căn cứ;
2. Người không chấp nhận yêu cầu định giá phải nộp chi phí định giá nếu
kết quả định giá chứng minh yêu cầu của người yêu cầu định giá là có căn cứ;
3. Trong trường hợp các bên không thống nhất được về giá mà yêu cầu Toà
án định giá thì mỗi bên đương sự phải nộp một nửa số tiền chi phí định giá;
4. Trong trường hợp Toà án ra quyết định định giá quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 92 của Bộ luật này thì:
a) Mỗi bên đương sự phải nộp một nửa số tiền chi phí định giá nếu kết
quả định giá chứng minh quyết định định giá của Toà án là có căn cứ;
b) Toà án trả chi phí định giá nếu kết quả định giá chứng minh quyết
định định giá của Toà án là không có căn cứ;
5. Trong trường hợp định giá để chia tài sản chung thì mỗi người được
chia tài sản phải chịu phần chi phí định giá theo tỷ lệ giá trị phần tài sản mà
họ được chia.
1. Chi phí hợp lý và thực tế cho người làm chứng do đương sự chịu.
2. Người đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng phải chịu tiền chi
phí cho người làm chứng nếu lời làm chứng phù hợp sự thật nhưng không đúng với
yêu cầu của người đề nghị. Trong trường hợp lời làm chứng phù hợp với sự thật
và đúng với yêu cầu của người đề nghị triệu tập người làm chứng thì chi phí này
do đương sự có yêu cầu độc lập với yêu cầu của người đề nghị chịu.
1. Chi phí cho người phiên dịch là khoản tiền phải trả cho người phiên
dịch trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo thoả thuận của đương sự với
người phiên dịch hoặc theo quy định của pháp luật.
2. Chi phí cho luật sư là khoản tiền phải trả cho luật sư theo thoả
thuận của đương sự với luật sư trong phạm vi quy định của Văn phòng luật sư và
theo quy định của pháp luật.
3. Chi phí cho người phiên dịch, cho luật sư do người có yêu cầu chịu,
trừ trường hợp các bên đương sự có thoả thuận khác.
4. Trong trường hợp Toà án yêu cầu người phiên dịch thì chi phí cho
người phiên dịch do Toà án trả.
Chi phí cụ thể về giám định, định giá và chi phí cụ thể cho người làm
chứng, người phiên dịch, luật sư do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
CẤP, TỐNG ĐẠT, THÔNG BÁO VĂN
BẢN TỐ TỤNG
Điều 146. Nghĩa vụ
cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng
Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án có nghĩa vụ cấp, tống đạt
hoặc thông báo văn bản tố tụng cho đương sự, những người tham gia tố tụng khác
và cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của Bộ luật này.
1. Bản án, quyết định của Toà án.
2. Đơn khởi kiện, đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị.
3. Giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời trong tố tụng dân sự.
4. Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí, án phí, lệ
phí và các chi phí khác.
5. Các văn bản tố tụng khác mà pháp luật có quy định.
1. Việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng do những người sau
đây thực hiện:
a) Người tiến hành tố tụng, người của cơ quan ban hành văn bản tố tụng
được giao nhiệm vụ thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng;
b) Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người tham gia tố tụng dân sự cư trú hoặc
cơ quan, tổ chức nơi người tham gia tố tụng dân sự làm việc khi Toà án có yêu
cầu;
c) Đương sự, người đại diện của đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự trong những trường hợp do Bộ luật này quy định;
d) Nhân viên bưu điện;
đ) Những người khác mà pháp luật có quy định.
2. Người có nghĩa vụ thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo mà
không làm đúng trách nhiệm của mình thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà
bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu
gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng được thực hiện bằng
các phương thức sau đây:
1. Cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp, qua bưu điện hoặc người thứ ba
được uỷ quyền;
2. Niêm yết công khai;
3. Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
1. Việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng được thực hiện
theo quy định của Bộ luật này thì được coi là hợp lệ.
2. Người có nghĩa vụ thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn
bản tố tụng phải thực hiện theo quy định của Bộ luật này.
Người có nghĩa vụ thi hành các văn bản tố tụng đã được cấp, tống đạt
hoặc thông báo hợp lệ phải nghiêm chỉnh thi hành; trường hợp không thi hành
hoặc thi hành không đúng thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật.
Người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng phải
trực tiếp chuyển giao cho người được cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố
tụng có liên quan. Người được cấp, tống đạt hoặc thông báo phải ký nhận vào
biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản tố tụng. Thời điểm để tính thời hạn tố tụng
là ngày họ được cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng.
1. Người được cấp, tống đạt hoặc thông báo là cá nhân thì văn bản tố
tụng phải được giao trực tiếp cho họ.
2. Trong trường hợp người được cấp, tống đạt hoặc thông báo vắng mặt
thì văn bản tố tụng có thể được giao cho người thân thích có đủ năng lực hành
vi dân sự cùng cư trú với họ ký nhận và yêu cầu người này cam kết giao lại tận
tay ngay cho người được cấp, tống đạt hoặc thông báo. Ngày ký nhận của người
thân thích cùng cư trú được coi là ngày được cấp, tống đạt hoặc thông báo.
Trong trường hợp người được cấp, tống đạt hoặc thông báo không có người
thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú hoặc có nhưng họ không
chịu nhận hộ văn bản tố tụng thì có thể chuyển giao văn bản đó cho tổ trưởng tổ
dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, khóm, buôn, phum, sóc (sau đây gọi chung
là tổ trưởng tổ dân phố), Uỷ ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn nơi
người được cấp, tống đạt hoặc thông báo cư trú và yêu cầu những người này cam
kết giao lại tận tay ngay cho người được cấp, tống đạt hoặc thông báo.
3. Trong trường hợp việc cấp, tống đạt hoặc thông báo qua người khác
thì người thực hiện phải lập biên bản ghi rõ việc người được cấp, tống đạt hoặc
thông báo vắng mặt, văn bản tố tụng đã được giao cho ai; lý do; ngày, giờ giao;
quan hệ giữa họ với nhau; cam kết giao lại tận tay ngay văn bản tố tụng cho
người được cấp, tống đạt hoặc thông báo. Biên bản có chữ ký của người nhận
chuyển văn bản tố tụng và người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo,
người chứng kiến.
4. Trong trường hợp người được cấp, tống đạt hoặc thông báo đã chuyển
đến địa chỉ mới thì phải cấp, tống đạt hoặc thông báo theo địa chỉ mới của họ.
5. Trong trường hợp người được cấp, tống đạt hoặc thông báo vắng mặt mà
không rõ thời điểm trở về hoặc không rõ địa chỉ thì người thực hiện việc cấp,
tống đạt hoặc thông báo phải lập biên bản về việc không thực hiện được việc
cấp, tống đạt hoặc thông báo có chữ ký của người cung cấp thông tin.
6. Trong trường hợp người được cấp, tống đạt hoặc thông báo từ chối
nhận văn bản tố tụng thì người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo phải
lập biên bản trong đó nêu rõ lý do của việc từ chối, có xác nhận của tổ trưởng
tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn về việc người đó từ
chối nhận văn bản tố tụng.
Trường hợp người được cấp, tống đạt hoặc thông báo là cơ quan, tổ chức
thì văn bản tố tụng phải được giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật
hoặc người chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được
những người này ký nhận. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức được cấp, tống đạt
hoặc thông báo có người đại diện tham gia tố tụng hoặc cử người đại diện nhận
văn bản tố tụng thì những người này ký nhận văn bản tố tụng đó. Ngày ký nhận là
ngày được cấp, tống đạt hoặc thông báo.
1. Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng chỉ được thực hiện khi không
rõ tung tích của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo hoặc không thể thực
hiện được việc cấp, tống đạt hoặc thông báo trực tiếp.
2. Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng do Toà án trực tiếp hoặc uỷ
quyền cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người
được cấp, tống đạt hoặc thông báo được thực hiện theo thủ tục sau đây:
a) Niêm yết bản chính tại trụ sở Toà án, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư
trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo;
b) Niêm yết bản sao tại nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người
được cấp, tống đạt hoặc thông báo;
c) Lập biên bản về việc thực hiện thủ tục niêm yết công khai, trong đó
ghi rõ ngày, tháng, năm niêm yết.
3. Thời gian niêm yết công khai văn bản tố tụng là mười lăm ngày, kể từ
ngày niêm yết.
1. Việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng chỉ được thực
hiện khi pháp luật có quy định hoặc có căn cứ xác định là việc niêm yết công
khai không bảo đảm cho người được cấp, tống đạt hoặc thông báo nhận được thông
tin về văn bản cần được cấp, tống đạt hoặc thông báo.
Việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng có thể được thực
hiện nếu có yêu cầu của các đương sự khác. Lệ phí thông báo trên phương tiện
thông tin đại chúng do đương sự có yêu cầu thông báo phải chịu.
2. Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng phải được đăng trên
báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp và phát sóng trên Đài phát
thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong ba ngày liên tiếp.
Trong trường hợp người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn
bản tố tụng không phải là Toà án hoặc cơ quan ban hành văn bản tố tụng hoặc cán
bộ của các cơ quan đó thì người thực hiện phải thông báo ngay kết quả việc cấp,
tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng cho Toà án hoặc cơ quan ban hành văn
bản tố tụng đó.
THỜI HẠN TỐ TỤNG
Điều 157. Thời hạn
tố tụng
1. Thời hạn tố tụng là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm
này đến thời điểm khác để người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc
cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện hành vi tố tụng do Bộ luật này
quy định.
2. Thời hạn tố tụng có thể được xác định bằng giờ, ngày, tuần, tháng,
năm hoặc bằng một sự kiện có thể xảy ra.
Cách tính thời hạn tố tụng, quy định về thời hạn tố tụng, thời điểm bắt
đầu, kết thúc thời hạn tố tụng trong Bộ luật này được áp dụng theo các quy định
tương ứng của Bộ luật dân sự.
1. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để
yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác.
2. Thời hiệu yêu cầu là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Toà án
giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước; nếu thời hạn đó kết
thúc thì mất quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi
kiện, thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được quy
định như sau:
a) Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự là hai
năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi
ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm;
b) Thời hiệu yêu cầu để Toà án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ
ngày phát sinh quyền yêu cầu.
Các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng
dân sự.
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN TẠI
TOÀ ÁN CẤP SƠ THẨM
Chương XII
KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN
Điều 161. Quyền khởi
kiện vụ án
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại
diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Toà án
có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Điều 162. Quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước
1. Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và
gia đình trong trường hợp do Luật hôn nhân và gia đình quy định.
2. Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao
động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người
lao động do pháp luật quy định.
3. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền
khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của
Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện một hoặc nhiều cá nhân,
cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có
liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.
2. Nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể cùng khởi kiện một cá nhân,
một cơ quan, một tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp
luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền do Bộ luật này quy định có
thể khởi kiện đối với một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan
hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết
trong cùng một vụ án.
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện phải làm đơn khởi kiện.
2. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
b) Tên Toà án nhận đơn khởi kiện;
c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện;
d) Tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có;
đ) Tên, địa chỉ của người bị kiện;
e) Tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu có;
g) Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết đối với bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
h) Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có;
i) Tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ
và hợp pháp;
k) Các thông tin khác mà người khởi kiện xét thấy cần thiết cho việc
giải quyết vụ án;
l) Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan,
tổ chức khởi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và
đóng dấu vào phần cuối đơn.
Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để
chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
1. Người khởi kiện vụ án gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm
theo đến Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức sau đây:
a) Nộp trực tiếp tại Toà án;
b) Gửi đến Toà án qua bưu điện.
2. Ngày khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Toà án hoặc
ngày có dấu bưu điện nơi gửi.
Toà án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Toà án
hoặc gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn năm ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Toà án phải xem xét và có một trong
các quyết định sau đây:
1. Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết
của mình;
2. Chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi
kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác;
3. Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án.
1. Toà án trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:
a) Thời hiệu khởi kiện đã hết;
b) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự;
c) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Toà án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi
nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài
sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Toà án chưa
chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện;
d) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của Bộ
luật này mà người khởi kiện không đến Toà án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ
trường hợp có lý do chính đáng;
đ) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện;
e) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
2. Khi trả lại đơn khởi kiện, Toà án phải có văn bản kèm theo ghi rõ lý
do trả lại đơn khởi kiện.
1. Trong trường hợp đơn khởi kiện không có đủ các nội dung quy định tại
khoản 2 Điều 164 của Bộ luật này thì Toà án thông báo cho người khởi kiện biết
để họ sửa đổi, bổ sung trong một thời hạn do Toà án ấn định, nhưng không quá ba
mươi ngày; trong trường hợp đặc biệt, Toà án có thể gia hạn, nhưng không quá
mười lăm ngày.
2. Trong trường hợp người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện
theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 164 của Bộ luật này thì Toà án tiếp tục
việc thụ lý vụ án; nếu họ không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Toà án thì
Toà án trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi
kiện.
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện
và tài liệu, chứng cứ kèm theo do Toà án trả lại, người khởi kiện có quyền
khiếu nại với Chánh án Toà án đã trả lại đơn khởi kiện.
2. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được khiếu nại về
việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Toà án phải ra một trong các quyết định sau
đây:
a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;
b) Nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành
việc thụ lý vụ án.
1. Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét
thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án thì Toà án phải thông báo
ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Toà án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án
phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.
2. Toà án dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào phiếu báo và giao cho
người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể
từ ngày nhận được giấy báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người
khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí.
3. Toà án thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Toà án biên lai nộp
tiền tạm ứng án phí.
4. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền
tạm ứng án phí, án phí thì Toà án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện
và tài liệu, chứng cứ kèm theo.
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án
Toà án phân công một Thẩm phán giải quyết vụ án.
2. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không
thể tiếp tục tiến hành được nhiệm vụ thì Chánh án Toà án phân công Thẩm phán
khác tiếp tục nhiệm vụ; trường hợp đang xét xử mà không có Thẩm phán dự khuyết
thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu.
1. Thông báo về việc thụ lý vụ án.
2. Yêu cầu đương sự nộp tài liệu, chứng cứ cho Toà án.
3. Thực hiện một hoặc một số biện pháp để thu thập chứng cứ theo quy
định tại khoản 2 Điều 85 của Bộ luật này.
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải
thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về
việc Toà án đã thụ lý vụ án.
2. Văn bản thông báo phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;
b) Tên, địa chỉ Toà án đã thụ lý vụ án;
c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện;
d) Những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết;
đ) Danh sách tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi
kiện;
e) Thời hạn người được thông báo phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho
Toà án đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu
có;
g) Hậu quả pháp lý của việc người được thông báo không nộp cho Toà án
văn bản về ý kiến của mình đối với yêu cầu.
1. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người
được thông báo phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu
của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có.
Trong trường hợp cần gia hạn thì người được thông báo phải có đơn xin
gia hạn gửi cho Toà án nêu rõ lý do; nếu việc xin gia hạn là có căn cứ thì Toà
án phải gia hạn, nhưng không quá mười lăm ngày.
2. Người được thông báo có quyền yêu cầu Toà án cho xem, ghi chép, sao
chụp đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện.
1. Cùng với việc phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối
với yêu cầu của người khởi kiện thì bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với
nguyên đơn.
2. Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn được chấp nhận khi có
một trong các trường hợp sau đây:
a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn;
b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một
phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn;
c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn có sự liên quan với
nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ
án được chính xác và nhanh hơn.
Trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia
tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập
khi có các điều kiện sau đây:
1. Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
2. Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;
3. Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho
việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
Thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập được thực hiện theo quy
định của Bộ luật này về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn.
HOÀ GIẢI VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ
Điều 179. Thời hạn
chuẩn bị xét xử
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án được quy định như sau:
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này,
thời hạn là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này,
thời hạn là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì
Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không
quá hai tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a và một tháng
đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
2. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tuỳ
từng trường hợp, Toà án ra một trong các quyết định sau đây:
a) Công nhận sự thoả thuận của các đương sự;
b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án;
c) Đình chỉ giải quyết vụ án;
d) Đưa vụ án ra xét xử.
3. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét
xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn
này là hai tháng.
1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Toà án tiến hành hoà
giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ
án không được hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải được quy định tại Điều 181
và Điều 182 của Bộ luật này.
2. Việc hoà giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tôn trọng sự tự nguyện thoả thuận của các đương sự, không được dùng
vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thoả thuận không phù
hợp với ý chí của mình;
b) Nội dung thoả thuận giữa các đương sự không được trái pháp luật hoặc
trái đạo đức xã hội.
1. Yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
2. Những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái
đạo đức xã hội.
1. Bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố
tình vắng mặt.
2. Đương sự không thể tham gia hoà giải được vì có lý do chính đáng.
3. Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực
hành vi dân sự.
Trước khi tiến hành phiên hoà giải, Toà án phải thông báo cho các đương
sự, người đại diện hợp pháp của đương sự biết về thời gian, địa điểm tiến hành
phiên hoà giải, nội dung các vấn đề cần hoà giải.
1. Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải.
2. Thư ký Toà án ghi biên bản hoà giải.
3. Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự.
Trong một vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt trong phiên
hoà giải, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hoà giải và việc hoà
giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán
tiến hành hoà giải giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn
phiên hoà giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải
hoãn phiên hoà giải.
4. Người phiên dịch, nếu đương sự không biết tiếng Việt.
Khi tiến hành hoà giải, Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các
quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên
hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải
thành để họ tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
1. Việc hoà giải được Thư ký Toà án ghi vào biên bản. Biên bản hoà giải
phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm tiến hành phiên hoà giải;
b) Địa điểm tiến hành phiên hoà giải;
c) Thành phần tham gia phiên hoà giải;
d) ý kiến của các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương
sự;
đ) Những nội dung đã được các đương sự thoả thuận, không thoả thuận.
2. Biên bản hoà giải phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của các đương
sự có mặt trong phiên hoà giải, chữ ký của Thư ký Toà án ghi biên bản và của
Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải.
Khi các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết
trong vụ án dân sự thì Toà án lập biên bản hoà giải thành. Biên bản này được
gửi ngay cho các đương sự tham gia hoà giải.
1. Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà
không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ trì
phiên hoà giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Toà án phân công ra quyết định
công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự
thoả thuận của các đương sự, Toà án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và
Viện kiểm sát cùng cấp.
2. Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự
nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
3. Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 184 của Bộ luật này mà
các đương sự có mặt thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thoả
thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết
định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt.
Trong trường hợp thoả thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương
sự vắng mặt thì thoả thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định
công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hoà giải đồng ý bằng văn bản.
1. Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự có hiệu lực pháp
luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm.
2. Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự chỉ có thể bị
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thoả thuận đó
là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe doạ hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
1. Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia,
tách, giải thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó.
2. Một bên đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác
định được người đại diện theo pháp luật.
3. Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế.
4. Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được
pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải
quyết được vụ án.
5. Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
1. Toà án không xoá tên vụ án dân sự bị tạm đình chỉ giải quyết trong
sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số và ngày, tháng, năm của quyết định
tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó.
2. Tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được gửi tại kho bạc
nhà nước và được xử lý khi Toà án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự.
3. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Toà án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự bị tạm đình chỉ khi lý do tạm
đình chỉ không còn.
1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Toà án ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:
a) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ
không được thừa kế;
b) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có
cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ
chức đó;
c) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận hoặc
người khởi kiện không có quyền khởi kiện;
d) Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có
nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án;
đ) Các đương sự đã tự thoả thuận và không yêu cầu Toà án tiếp tục giải
quyết vụ án;
e) Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt;
g) Đã có quyết định của Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên
quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó;
h) Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
2. Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, xoá tên vụ án
đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho
đương sự nếu vụ án thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện quy định tại Điều 168
của Bộ luật này.
1. Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không
có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi
kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan
hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp quy định tại các điểm c, e và g
khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này và các trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Trong trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự theo quy định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này thì tiền tạm ứng án phí
mà đương sự đã nộp được sung vào công quỹ nhà nước.
3. Trong trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự theo quy định tại khoản 2 Điều 192 của Bộ luật này thì tiền tạm ứng án phí
mà đương sự đã nộp được trả lại cho người đã nộp tiền tạm ứng án phí.
4. Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
1. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự có thẩm quyền ra
quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó.
2. Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tạm đình
chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Toà án phải gửi quyết định đó cho đương
sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
1. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định;
b) Tên Toà án ra quyết định;
c) Vụ án được đưa ra xét xử;
d) Tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn hoặc người khác khởi kiện yêu
cầu Toà án giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
đ) Họ, tên Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án và họ, tên Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân dự khuyết, nếu có;
e) Họ, tên Kiểm sát viên tham gia phiên toà, nếu có;
g) Ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên toà;
h) Xét xử công khai hoặc xét xử kín;
i) Họ, tên những người được triệu tập tham gia phiên toà.
2. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được gửi cho các đương sự, Viện
kiểm sát cùng cấp ngay sau khi ra quyết định.
Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà theo quy định tại khoản 2
Điều 21 của Bộ luật này thì Toà án phải gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng
cấp; trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát
phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Toà án.
PHIÊN TOÀ SƠ THẨM
Mục 1. QUY ĐỊNH CHUNG VỀ PHIÊN TOÀ SƠ THẨM
Điều 196. Yêu cầu
chung đối với phiên toà sơ thẩm
Phiên toà sơ thẩm phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được
ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên toà
trong trường hợp phải hoãn phiên toà.
1. Toà án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách
hỏi và nghe lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác; xem xét, kiểm tra tài
liệu, chứng cứ đã thu thập được; nghe Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát về việc giải quyết vụ án, trong trường hợp có Kiểm sát viên tham gia
phiên toà. Bản án chỉ được căn cứ vào kết quả tranh tụng, việc hỏi tại phiên
toà và các chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà.
2. Việc xét xử bằng lời nói và phải được tiến hành liên tục, trừ thời
gian nghỉ. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu
cho đến khi kết thúc, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 198 của Bộ luật
này.
Trong trường hợp đặc biệt do Bộ luật này quy định thì việc xét xử có
thể tạm ngừng không quá năm ngày làm việc. Hết thời hạn tạm ngừng, việc xét xử
vụ án được tiếp tục.
1. Trong trường hợp có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không thể tiếp tục
tham gia xét xử vụ án nhưng có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dự khuyết thì những
người này được tham gia xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên toà từ đầu.
Trong trường hợp Hội đồng xét xử có hai Thẩm phán mà Thẩm phán chủ toạ
phiên toà không tiếp tục tham gia xét xử được thì Thẩm phán là thành viên Hội
đồng xét xử làm chủ toạ phiên toà và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành
viên Hội đồng xét xử.
2. Trong trường hợp không có Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân dự khuyết
để thay thế thành viên Hội đồng xét xử hoặc phải thay đổi chủ toạ phiên toà mà
không có Thẩm phán để thay thế theo quy định tại khoản 1 Điều này thì vụ án
phải được xét xử lại từ đầu.
1. Nguyên đơn phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án;
nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà.
2. Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt
thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án. Trong trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thì
nguyên đơn có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
1. Bị đơn phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án; nếu
vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà.
2. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì
Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có mặt tại phiên toà
theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng
thì phải hoãn phiên toà.
2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến
lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đã được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu
độc lập của mình và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu
cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu nguyên đơn và bị
đơn đều đồng ý. Trong trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
đối với yêu cầu độc lập thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền
khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án trong các trường hợp sau đây:
1. Nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng
mặt tại phiên toà có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt;
2. Nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng
mặt tại phiên toà có người đại diện hợp pháp tham gia phiên toà;
3. Các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 200 và khoản 2 Điều 201 của
Bộ luật này.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải tham gia phiên
toà theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính
đáng thì phải hoãn phiên toà. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án tiến hành
xét xử vụ án; trong trường hợp này, đương sự tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
1. Người làm chứng có nghĩa vụ tham gia phiên toà theo giấy triệu tập
của Toà án để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Trong trường hợp người làm
chứng vắng mặt nhưng trước đó đã có lời khai trực tiếp với Toà án hoặc gửi lời khai
cho Toà án thì chủ toạ phiên toà công bố lời khai đó.
2. Trường hợp người làm chứng vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định
hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử; trường hợp người làm chứng vắng mặt
tại phiên toà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho
việc xét xử thì có thể bị dẫn giải đến phiên toà theo quyết định của Hội đồng
xét xử.
1. Người giám định có nghĩa vụ tham gia phiên toà theo giấy triệu tập
của Toà án để làm rõ những vấn đề liên quan đến việc giám định và kết luận giám
định.
2. Trường hợp người giám định vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định
hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử.
1. Người phiên dịch có nghĩa vụ tham gia phiên toà theo giấy triệu tập
của Toà án.
2. Trường hợp người phiên dịch vắng mặt mà không có người khác thay thế
thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà, trừ trường hợp đương sự vẫn yêu
cầu tiến hành xét xử.
1. Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có
nhiệm vụ tham gia phiên toà.
2. Trong trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên toà hoặc không
thể tiếp tục tham gia phiên toà xét xử, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết thì
người này được tham gia phiên toà xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên toà
từ đầu.
Trong trường hợp không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội
đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà và thông báo cho Viện trưởng Viện kiểm
sát cùng cấp.
1. Trong trường hợp Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà theo quy
định tại khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 72 và các điều 199, 200, 201, 203, 204,
205, 206, 207, 215 và khoản 4 Điều 230 của Bộ luật này thì thời hạn hoãn phiên
toà sơ thẩm không quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà.
2. Quyết định hoãn phiên toà phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định;
b) Tên Toà án và họ, tên những người tiến hành tố tụng;
c) Vụ án được đưa ra xét xử;
d) Lý do của việc hoãn phiên toà;
đ) Thời gian, địa điểm mở lại phiên toà.
3. Quyết định hoãn phiên toà phải được chủ toạ phiên toà thay mặt Hội
đồng xét xử ký tên và thông báo công khai cho những người tham gia tố tụng
biết; đối với người vắng mặt thì Toà án gửi ngay cho họ quyết định đó, đồng
thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
4. Trong trường hợp sau khi hoãn phiên toà mà Toà án không thể mở lại
phiên toà đúng thời gian, địa điểm mở lại phiên toà ghi trong quyết định hoãn
phiên toà thì Toà án phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp và những
người tham gia tố tụng biết về thời gian, địa điểm mở lại phiên toà.
1. Những người dưới mười sáu tuổi không được vào phòng xử án, trừ
trường hợp được Toà án triệu tập tham gia phiên toà.
Mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng
xử án, phải tôn trọng Hội đồng xét xử, giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều
khiển của chủ toạ phiên toà.
Chỉ những người được Hội đồng xét xử cho phép mới được hỏi, trả lời
hoặc phát biểu. Người hỏi, trả lời hoặc phát biểu phải đứng dậy, trừ trường hợp
vì lý do sức khoẻ được chủ toạ phiên toà cho phép ngồi để hỏi, trả lời hoặc
phát biểu.
2. Chánh án Toà án nhân dân tối cao căn cứ vào quy định tại khoản 1
Điều này và các quy định khác của pháp luật ban hành nội quy phiên toà.
1. Bản án phải được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng
nghị án.
2. Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch, chuyển vụ án, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án, hoãn
phiên toà phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án và phải được lập
thành văn bản.
3. Quyết định về các vấn đề khác được Hội đồng xét xử thảo luận và
thông qua tại phòng xử án, không phải viết thành văn bản, nhưng phải được ghi
vào biên bản phiên toà.
1. Biên bản phiên toà phải ghi đầy đủ các nội dung sau đây:
a) Các nội dung chính trong quyết định đưa vụ án ra xét xử quy định tại
khoản 1 Điều 195 của Bộ luật này;
b) Mọi diễn biến tại phiên toà từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc
phiên toà;
c) Các câu hỏi, câu trả lời và phát biểu tại phiên toà.
2. Ngoài việc ghi biên bản phiên toà, việc ghi âm, ghi hình về diễn
biến phiên toà chỉ có thể được tiến hành khi được sự đồng ý của Hội đồng xét
xử.
3. Sau khi kết thúc phiên toà, chủ toạ phiên toà phải kiểm tra biên bản
và cùng với Thư ký Toà án ký vào biên bản đó.
4. Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có quyền được xem biên
bản phiên toà ngay sau khi kết thúc phiên toà, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ
sung vào biên bản phiên toà và ký xác nhận.
Trước khi khai mạc phiên toà, Thư ký Toà án phải tiến hành các công
việc sau đây:
1. Phổ biến nội quy phiên toà;
2. Kiểm tra, xác định sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia
phiên toà theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án; nếu có người vắng mặt thì
cần phải làm rõ lý do;
3. Ổn định trật tự trong phòng xử án;
4. Yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào
phòng xử án.
Điều 213. Khai mạc
phiên toà
1. Chủ toạ phiên toà khai mạc phiên toà và đọc quyết định đưa vụ án ra
xét xử.
2. Thư ký Toà án báo cáo với Hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng mặt của
những người tham gia phiên toà theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án và lý
do vắng mặt.
3. Chủ toạ phiên toà kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia
phiên toà theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án và kiểm tra căn cước của
đương sự.
4. Chủ toạ phiên toà phổ biến quyền, nghĩa vụ của các đương sự và của
những người tham gia tố tụng khác.
5. Chủ toạ phiên toà giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch.
6. Chủ toạ phiên toà hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi những
người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem họ có yêu cầu
thay đổi ai không.
Trong trường hợp có người yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử phải xem xét, quyết định
theo thủ tục do Bộ luật này quy định và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận;
trường hợp không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do.
Khi có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên toà mà không thuộc
trường hợp Toà án phải hoãn phiên toà thì chủ toạ phiên toà phải hỏi xem có ai
đề nghị hoãn phiên toà hay không; nếu có người đề nghị thì Hội đồng xét xử xem
xét, quyết định theo thủ tục do Bộ luật này quy định và có thể chấp nhận hoặc
không chấp nhận, trường hợp không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do.
1. Trước khi người làm chứng được hỏi về những vấn đề mà họ biết được
có liên quan đến việc giải quyết vụ án, chủ toạ phiên toà có thể quyết định
những biện pháp cần thiết để những người làm chứng không nghe được lời khai của
nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan.
2. Trong trường hợp lời khai của đương sự và người làm chứng có ảnh
hưởng lẫn nhau thì chủ toạ phiên toà có thể quyết định cách ly đương sự với
người làm chứng trước khi hỏi người làm chứng.
Điều 217. Hỏi đương
sự về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
Thủ tục hỏi được bắt đầu bằng việc chủ toạ phiên toà hỏi đương sự về
các vấn đề sau đây:
1. Hỏi nguyên đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu khởi kiện hay không;
2. Hỏi bị đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu
phản tố hay không;
3. Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có
thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu độc lập hay không.
1. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương
sự, nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.
2. Trong trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của
mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và
đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút.
1. Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nhưng bị
đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn và
nguyên đơn trở thành bị đơn.
2. Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn
rút toàn bộ yêu cầu phản tố, nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn
giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trở thành nguyên đơn, người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị
đơn.
1. Chủ toạ phiên toà hỏi các đương sự có thoả thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án hay không. Trong trường hợp các đương sự thoả thuận được
với nhau về việc giải quyết vụ án và thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái
pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự
thoả thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án.
2. Quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự về việc giải quyết
vụ án có hiệu lực pháp luật.
1. Trong trường hợp có đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình và các
đương sự không tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Hội
đồng xét xử bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe lời trình bày của các đương sự
theo trình tự sau đây:
a) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày yêu
cầu của nguyên đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp
pháp. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến.
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án thì đại diện cơ quan,
tổ chức trình bày về yêu cầu khởi kiện và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp;
b) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến
của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn; yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn
và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn có
quyền bổ sung ý kiến;
c) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối
với yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn; yêu cầu độc lập, đề nghị của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có
căn cứ và hợp pháp. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý
kiến.
2. Trong trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ tự trình
bày về yêu cầu, đề nghị của mình và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị
đó là có căn cứ và hợp pháp.
3. Tại phiên toà, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của mình.
Sau khi nghe xong lời trình bày của đương sự, việc hỏi từng người về
từng vấn đề được thực hiện theo thứ tự chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến Hội
thẩm nhân dân, sau đó đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
đương sự và những người tham gia tố tụng khác; trường hợp có Kiểm sát viên tham
gia phiên toà thì Kiểm sát viên hỏi sau đương sự.
1. Trong trường hợp có nhiều nguyên đơn thì phải hỏi riêng từng nguyên
đơn.
2. Chỉ hỏi nguyên đơn về những vấn đề mà người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn, nguyên đơn trình bày chưa rõ, có mâu thuẫn với nhau
hoặc mâu thuẫn với những lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với lời trình bày
của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của những người này.
3. Nguyên đơn có thể tự mình trả lời hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn trả lời thay cho nguyên đơn và sau đó nguyên đơn trả
lời bổ sung.
1. Trong trường hợp có nhiều bị đơn thì phải hỏi riêng từng bị đơn.
2. Chỉ hỏi bị đơn về những vấn đề mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị đơn, bị đơn trình bày chưa rõ, có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn
với những lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với yêu cầu của nguyên đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
những người này.
3. Bị đơn có thể tự mình trả lời hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị đơn trả lời thay cho bị đơn và sau đó bị đơn trả lời bổ sung.
1. Trong trường hợp có nhiều người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì
phải hỏi riêng từng người một.
2. Chỉ hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về những vấn đề mà
họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày chưa rõ, có mâu
thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với những lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với
yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của những người này.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể tự mình trả lời hoặc
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trả lời thay cho họ và sau đó họ
trả lời bổ sung.
1. Trong trường hợp có nhiều người làm chứng thì phải hỏi riêng từng
người một.
2. Trước khi hỏi người làm chứng, chủ toạ phiên toà phải hỏi rõ về quan
hệ giữa họ với các đương sự trong vụ án; nếu người làm chứng là người chưa thành
niên thì chủ toạ phiên toà có thể yêu cầu cha, mẹ, người giám hộ hoặc thầy
giáo, cô giáo giúp đỡ để hỏi.
3. Chủ toạ phiên toà yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những tình
tiết của vụ án mà họ biết. Sau khi người làm chứng trình bày xong thì chỉ hỏi
thêm người làm chứng về những điểm mà họ trình bày chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc có
mâu thuẫn với nhau, mâu thuẫn với những lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với
lời trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự.
4. Sau khi đã trình bày xong, người làm chứng ở lại phòng xử án để có
thể được hỏi thêm.
5. Trong trường hợp cần thiết phải bảo đảm an toàn cho người làm chứng
và những người thân thích của họ, Hội đồng xét xử quyết định không tiết lộ
những thông tin về nhân thân của người làm chứng và không để những người trong
phiên toà nhìn thấy họ.
1. Hội đồng xét xử công bố các tài liệu của vụ án trong các trường hợp
sau đây:
a) Người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên toà mà trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử đã có lời khai;
b) Những lời khai của người tham gia tố tụng tại phiên toà mâu thuẫn
với những lời khai trước đó;
c) Trong các trường hợp khác mà Hội đồng xét xử thấy cần thiết hoặc có
yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng.
2. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần
phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời
tư của cá nhân theo yêu cầu của đương sự thì Hội đồng xét xử không công bố các
tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Theo yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng hoặc khi xét
thấy cần thiết, Hội đồng xét xử cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi
hình, đĩa ghi hình tại phiên toà, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 227
của Bộ luật này.
Vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra để xem xét
tại phiên toà.
Khi cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với các đương sự đến xem xét
tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên toà được.
1. Chủ toạ phiên toà yêu cầu người giám định trình bày kết luận của
mình về vấn đề được giao giám định. Khi trình bày, người giám định có quyền
giải thích bổ sung về kết luận giám định, các căn cứ để đưa ra kết luận giám
định.
2. Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên toà có
quyền nhận xét về kết luận giám định, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ, hoặc
có mâu thuẫn trong kết luận giám định hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết
khác của vụ án.
3. Trong trường hợp người giám định không có mặt tại phiên toà thì chủ
toạ phiên toà công bố kết luận giám định.
4. Khi có người tham gia tố tụng không đồng ý với kết luận giám định
được công bố tại phiên toà và có yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại,
nếu xét thấy việc giám định bổ sung, giám định lại là cần thiết cho việc giải
quyết vụ án thì Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung, giám định lại;
trong trường hợp này thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà.
Khi nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ
toạ phiên toà hỏi Kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác xem họ có yêu cầu hỏi
vấn đề gì nữa không; trường hợp có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là có
căn cứ thì chủ toạ phiên toà quyết định tiếp tục việc hỏi.
Điều 232. Trình tự
phát biểu khi tranh luận
1. Sau khi kết thúc việc hỏi, Hội đồng xét xử chuyển sang phần tranh
luận tại phiên toà. Trình tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện như sau:
a) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát biểu.
Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện
thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày ý kiến. Người có quyền và lợi ích được
bảo vệ có quyền bổ sung ý kiến;
b) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn phát biểu. Bị đơn
có quyền bổ sung ý kiến;
c) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan phát biểu. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung
ý kiến.
2. Trong trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì họ tự
mình phát biểu khi tranh luận.
Khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc
giải quyết vụ án, người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ
đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà cũng như kết quả
việc hỏi tại phiên toà. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của
người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều
kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền
cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án.
Trong trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên toà thì sau khi những
người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, chủ toạ phiên toà
đề nghị Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ
án.
Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét,
việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét
xử quyết định trở lại việc hỏi; sau khi hỏi xong phải tiếp tục tranh luận.
Điều 236. Nghị án
1. Sau khi kết thúc phần tranh luận, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án
để nghị án.
2. Chỉ có các thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi
nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề
của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân
biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có
quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.
3. Khi nghị án chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra,
xem xét tại phiên toà, kết quả việc hỏi tại phiên toà và phải xem xét đầy đủ ý
kiến của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên.
4. Khi nghị án phải có biên bản ghi lại ý kiến đã thảo luận và quyết
định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được các thành viên Hội đồng
xét xử ký tên tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
5. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi
hỏi phải có thời gian dài thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị
án, nhưng không quá năm ngày làm việc kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên
toà.
Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên toà và
người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên toà biết giờ, ngày và địa điểm tuyên
án; nếu Hội đồng xét xử đã thực hiện việc thông báo mà có người tham gia tố
tụng vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc tuyên án theo quy định tại
Điều 239 của Bộ luật này.
Qua nghị án, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét,
việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết
định trở lại việc hỏi và tranh luận.
1. Toà án ra bản án nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Bản án gồm có phần mở đầu, phần nội dung vụ án và nhận định của Toà
án, phần quyết định.
3. Trong phần mở đầu phải ghi rõ tên Toà án xét xử sơ thẩm; số và ngày
thụ lý vụ án; số bản án và ngày tuyên án; họ, tên của các thành viên Hội đồng
xét xử, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch; tên,
địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ
quan, tổ chức khởi kiện; người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự; đối tượng tranh chấp; số, ngày, tháng, năm của quyết
định đưa vụ án ra xét xử; xét xử công khai hoặc xét xử kín; thời gian và địa
điểm xét xử.
4. Trong phần nội dung vụ án và nhận định của Toà án phải ghi yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, khởi kiện của cơ quan, tổ chức; đề nghị, yêu cầu phản
tố của bị đơn; đề nghị, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan; nhận định của Toà án; điểm, khoản và điều luật của văn bản quy phạm pháp
luật mà Toà án căn cứ để giải quyết vụ án.
Trong nhận định của Toà án phải phân tích những căn cứ để chấp nhận
hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự.
5. Trong phần quyết định phải ghi rõ các quyết định của Toà án về từng
vấn đề phải giải quyết trong vụ án, về án phí và quyền kháng cáo đối với bản
án; trường hợp có quyết định phải thi hành ngay thì phải ghi rõ quyết định đó.
Khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy, trừ trường hợp
đặc biệt được phép của chủ toạ phiên toà. Chủ toạ phiên toà hoặc một thành viên
khác của Hội đồng xét xử đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm
về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo.
Trong trường hợp có đương sự không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên
án, người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà
họ biết.
1. Sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ
trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính
toán sai. Việc sửa chữa, bổ sung phải được thông báo ngay cho người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc sửa chữa, bổ sung; đồng thời thông báo cho cơ
quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp.
2. Việc sửa chữa, bổ sung bản án quy định tại khoản 1 Điều này phải do
Thẩm phán phối hợp với các Hội thẩm nhân dân là thành viên Hội đồng xét xử vụ
án đó thực hiện. Trong trường hợp Thẩm phán đó không còn đảm nhiệm chức vụ Thẩm
phán thì Chánh án Toà án thực hiện việc sửa chữa, bổ sung đó.
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày kết thúc phiên toà, các
đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện được Toà án cấp trích lục bản án.
2. Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày tuyên án, Toà án phải giao hoặc
gửi bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cùng
cấp.
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN TẠI
TOÀ ÁN CẤP PHÚC THẨM
Chương XV
TÍNH CHẤT CỦA XÉT XỬ PHÚC
THẨM VÀ KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN CẤP SƠ THẨM
Điều 242. Tính chất
của xét xử phúc thẩm
Xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà
bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo hoặc kháng nghị.
Đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có
quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ
án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại
theo thủ tục phúc thẩm.
1. Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo;
b) Tên, địa chỉ của người kháng cáo;
c) Kháng cáo phần nào của bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật;
d) Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo;
đ) Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo.
2. Đơn kháng cáo phải được gửi cho Toà án cấp sơ thẩm đã ra bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo; trường hợp đơn kháng cáo gửi cho Toà án cấp
phúc thẩm thì Toà án đó phải chuyển cho Toà án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ
tục cần thiết và gửi kèm hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm theo quy định tại
Điều 255 của Bộ luật này.
3. Kèm theo đơn kháng cáo là tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có để
chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp.
1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm
ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời
hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải
quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là bảy ngày, kể từ ngày người có quyền kháng
cáo nhận được quyết định.
3. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo
được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì.
1. Sau khi nhận được đơn kháng cáo, Toà án cấp sơ thẩm phải kiểm tra
tính hợp lệ của đơn kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật
này.
2. Trong trường hợp đơn kháng cáo quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm yêu
cầu người kháng cáo trình bày rõ lý do và xuất trình tài liệu, chứng cứ, nếu có
để chứng minh cho lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng.
Trường hợp đơn kháng cáo chưa làm đúng quy định tại khoản 1 Điều 244
của Bộ luật này thì Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo sửa đổi, bổ
sung.
1. Kháng cáo quá thời hạn quy định tại Điều 245 của Bộ luật này là
kháng cáo quá hạn. Sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Toà án cấp sơ thẩm
phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo
quá hạn và tài liệu, chứng cứ, nếu có cho Toà án cấp phúc thẩm.
2. Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn
và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Toà án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba
Thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn. Hội đồng có quyền ra quyết định chấp
nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc
chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định. Toà án cấp phúc thẩm phải gửi
quyết định cho người kháng cáo quá hạn và Toà án cấp sơ thẩm; nếu Toà án cấp
phúc thẩm chấp nhận việc kháng cáo quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành
các thủ tục do Bộ luật này quy định và gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc
thẩm.
1. Sau khi chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ, Toà án cấp sơ thẩm phải
thông báo cho người kháng cáo biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo
quy định của pháp luật, nếu họ không thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải
nộp tiền tạm ứng án phí, án phí phúc thẩm.
2. Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án
về việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, người kháng cáo phải nộp tiền tạm
ứng án phí và nộp cho Toà án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Hết
thời hạn này mà người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì
được coi là họ từ bỏ việc kháng cáo, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
1. Sau khi chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ, Toà án cấp sơ thẩm phải
thông báo ngay bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có liên quan
đến kháng cáo biết về việc kháng cáo.
2. Người được thông báo về việc kháng cáo có quyền gửi văn bản nêu ý
kiến của mình về nội dung kháng cáo cho Toà án cấp phúc thẩm. Văn bản nêu ý
kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án.
Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng
nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp
sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc
thẩm.
1. Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát phải bằng văn bản và có các
nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định kháng nghị và số của quyết định kháng
nghị;
b) Tên của Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị;
c) Kháng nghị phần nào của bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật;
d) Lý do của việc kháng nghị và yêu cầu của Viện kiểm sát;
đ) Họ, tên của người ký quyết định kháng nghị và đóng dấu của Viện kiểm
sát ra quyết định kháng nghị.
2. Quyết định kháng nghị phải được gửi ngay cho Toà án cấp sơ thẩm đã
ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị để Toà án cấp sơ thẩm tiến hành các
thủ tục do Bộ luật này quy định và gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm
theo quy định tại Điều 255 của Bộ luật này.
3. Kèm theo quyết định kháng nghị là tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có
để chứng minh cho kháng nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ và hợp pháp.
1. Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm của Viện
kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba
mươi ngày, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên
toà thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản
án.
2. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định
tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là bảy ngày, của
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng
cấp nhận được quyết định.
1. Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị phải gửi ngay quyết định
kháng nghị cho đương sự có liên quan đến kháng nghị.
2. Người được thông báo về việc kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý
kiến của mình về nội dung kháng nghị cho Toà án cấp phúc thẩm. Văn bản nêu ý
kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án.
1. Những phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị
thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành
ngay.
2. Bản án, quyết định hoặc những phần của bản án, quyết định sơ thẩm
của Toà án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày
hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Toà án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài
liệu, chứng cứ kèm theo cho Toà án cấp phúc thẩm trong thời hạn năm ngày làm
việc, kể từ ngày:
1. Hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nếu người kháng cáo không phải
nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm;
2. Người kháng cáo nộp cho Toà án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng
án phí phúc thẩm.
1. Trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người
kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định
kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá
phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã
hết.
2. Trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người
kháng cáo có quyền rút kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị hoặc
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền rút kháng nghị.
Toà án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của
vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng nghị.
3. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên
toà phải được làm thành văn bản và gửi cho Toà án cấp phúc thẩm. Toà án cấp
phúc thẩm phải thông báo cho các đương sự biết về việc thay đổi, bổ sung, rút
kháng cáo, kháng nghị.
Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên toà phải
được ghi vào biên bản phiên toà.
CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM
Điều 257. Thụ lý vụ
án để xét xử phúc thẩm
1. Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài
liệu, chứng cứ kèm theo, Toà án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý.
2. Chánh án Toà án cấp phúc thẩm hoặc Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công một Thẩm phán
làm chủ toạ phiên toà.
1. Trong thời hạn hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, tuỳ từng trường
hợp, Toà án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây:
a) Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
b) Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
c) Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì
Chánh án Toà án cấp phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét
xử, nhưng không được quá một tháng.
2. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét
xử, Toà án phải mở phiên toà phúc thẩm; trong trường hợp có lý do chính đáng
thì thời hạn này là hai tháng.
3. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm phải được gửi cho Viện kiểm
sát cùng cấp và những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.
Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án,
hậu quả của việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án và tiếp tục xét xử phúc
thẩm vụ án được thực hiện theo quy định tại các điều 189, 190 và 191 của Bộ
luật này.
1. Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án
trong các trường hợp sau đây:
a) Trong các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 192
của Bộ luật này;
b) Người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ
kháng nghị;
c) Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
2. Trong trường hợp Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử
phúc thẩm vụ án theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này thì bản án, quyết
định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định
đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm có quyền
quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại
Chương VIII của Bộ luật này.
1. Sau khi thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm phải
chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu.
2. Thời hạn nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm
ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án; hết thời hạn đó, Viện kiểm sát phải trả
hồ sơ vụ án cho Toà án.
THỦ TỤC XÉT XỬ PHÚC THẨM
Điều 263. Phạm vi
xét xử phúc thẩm
Toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ
thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng
cáo, kháng nghị.
1. Người kháng cáo, đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan
đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự phải được triệu tập tham gia phiên toà. Toà án có thể triệu
tập những người tham gia tố tụng khác tham gia phiên toà nếu xét thấy cần thiết
cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị.
2. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc
thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc đã tham gia phiên toà sơ
thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm, việc tạm đình chỉ, đình chỉ xét xử phúc thẩm
vụ án được thực hiện theo quy định tại Điều 259 và Điều 260 của Bộ luật này.
1. Trường hợp Kiểm sát viên phải tham gia phiên toà vắng mặt thì phải
hoãn phiên toà.
2. Người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải
hoãn phiên toà. Người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn
vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và Toà án ra quyết định đình chỉ
xét xử phúc thẩm phần vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt.
3. Người tham gia tố tụng khác không phải là người kháng cáo vắng mặt
tại phiên toà thì việc hoãn phiên toà hay vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm được
thực hiện theo quy định tại các điều 199, 200, 201, 202, 203, 204, 205 và 206
của Bộ luật này.
4. Thời hạn hoãn phiên toà và quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm được
thực hiện theo quy định tại Điều 208 của Bộ luật này.
Chuẩn bị khai mạc phiên toà phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên toà phúc
thẩm được thực hiện theo quy định tại các điều 212, 213, 214, 215 và 216 của Bộ
luật này.
1. Sau khi kết thúc thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm thì một thành
viên của Hội đồng xét xử phúc thẩm công bố nội dung vụ án, quyết định của bản
án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị.
2. Chủ toạ phiên toà hỏi về các vấn đề sau đây:
a) Hỏi nguyên đơn có rút đơn khởi kiện hay không;
b) Hỏi người kháng cáo, Kiểm sát viên có thay đổi, bổ sung, rút kháng
cáo, kháng nghị hay không;
c) Hỏi các đương sự có thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án hay không.
1. Trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn rút
đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không
và tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau:
a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của
nguyên đơn;
b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải
quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm
theo quyết định của Toà án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm
theo quy định của pháp luật.
2. Trong trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án thì nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án theo thủ tục do Bộ
luật này quy định nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
1. Tại phiên toà phúc thẩm, nếu các đương sự thoả thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án và thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp
luật hoặc đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm sửa
bản án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
2. Các đương sự tự thoả thuận với nhau về việc chịu án phí sơ thẩm; nếu
không thoả thuận được với nhau thì Toà án quyết định theo quy định của pháp
luật.
1. Trong trường hợp có đương sự vẫn giữ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát
vẫn giữ kháng nghị và các đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án thì Hội đồng xét xử phúc thẩm bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe
lời trình bày của các đương sự theo thứ tự sau đây:
a) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo trình
bày về nội dung kháng cáo và các căn cứ của việc kháng cáo. Người kháng cáo có
quyền bổ sung ý kiến. Trong trường hợp tất cả các đương sự đều kháng cáo thì
việc trình bày theo thứ tự người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
kháng cáo là nguyên đơn và nguyên đơn; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự kháng cáo là bị đơn và bị đơn; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự kháng cáo là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trong trường hợp chỉ có Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên
trình bày về nội dung kháng nghị và các căn cứ của việc kháng nghị; trong
trường hợp vừa có kháng cáo, vừa có kháng nghị thì các đương sự trình bày về
nội dung kháng cáo và các căn cứ của việc kháng cáo trước, sau đó Kiểm sát viên
trình bày về nội dung kháng nghị và các căn cứ của việc kháng nghị;
b) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác có liên
quan đến kháng cáo, kháng nghị trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng
nghị. Đương sự có quyền bổ sung ý kiến.
2. Trong trường hợp đương sự không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho mình thì họ tự trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị và
đề nghị của mình.
3. Tại phiên toà phúc thẩm, đương sự, Kiểm sát viên có quyền xuất trình
bổ sung chứng cứ.
1. Thủ tục hỏi những người tham gia tố tụng và công bố tài liệu, xem
xét vật chứng tại phiên toà phúc thẩm được thực hiện như tại phiên toà sơ thẩm.
2. Việc hỏi phải được thực hiện đối với những vấn đề thuộc phạm vi xét
xử phúc thẩm quy định tại Điều 263 của Bộ luật này.
Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm được thực hiện như tranh luận tại
phiên toà sơ thẩm, thứ tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện theo quy định
tại Điều 271 của Bộ luật này và chỉ được tranh luận về những vấn đề thuộc phạm
vi xét xử phúc thẩm và đã được hỏi tại phiên toà phúc thẩm.
Việc nghị án, trở lại việc hỏi và tranh luận, thời gian nghị án, tuyên
án, sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm được thực hiện như thủ tục sơ thẩm.
Hội đồng xét xử phúc thẩm có các quyền sau đây:
1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm;
2. Sửa bản án sơ thẩm;
3. Huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải
quyết lại vụ án;
4. Huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu
Toà án cấp sơ thẩm quyết định không đúng pháp luật trong các trường hợp sau
đây:
1. Việc chứng minh và thu thập chứng cứ đã thực hiện đầy đủ và theo
đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật này;
2. Việc chứng minh và thu thập chứng cứ chưa thực hiện đầy đủ ở cấp sơ
thẩm nhưng tại phiên toà phúc thẩm đã được bổ sung đầy đủ.
Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho
Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án trong các trường hợp sau đây:
1. Việc chứng minh và thu thập chứng cứ không theo đúng quy định tại
Chương VII của Bộ luật này hoặc chưa được thực hiện đầy đủ mà tại phiên toà
phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được;
2. Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng quy định của Bộ
luật này hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ
án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một
trong các trường hợp quy định tại Điều 192 của Bộ luật này.
1. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm nhân danh nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Bản án phúc thẩm gồm có:
a) Phần mở đầu;
b) Phần nội dung vụ án, kháng cáo, kháng nghị, nhận định;
c) Phần quyết định.
3. Trong phần mở đầu phải ghi rõ tên của Toà án xét xử phúc thẩm; số và
ngày thụ lý vụ án; số bản án và ngày tuyên án; họ, tên của các thành viên Hội
đồng xét xử, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch;
tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ
quan, tổ chức khởi kiện; người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ; người kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị; xét xử công khai
hoặc xét xử kín; thời gian và địa điểm xét xử.
4. Trong phần nội dung vụ án, kháng cáo, kháng nghị, nhận định phải tóm
tắt nội dung vụ án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm; nội dung kháng cáo, kháng
nghị; nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm; điểm, khoản và điều của văn bản
quy phạm pháp luật mà Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ để giải quyết vụ án.
Trong nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm phải phân tích những căn
cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị.
5. Trong phần quyết định phải ghi rõ các quyết định của Hội đồng xét xử
phúc thẩm về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án do có kháng cáo, kháng
nghị, về việc phải chịu án phí sơ thẩm, phúc thẩm.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
1. Khi phúc thẩm đối với quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị, Hội đồng phúc thẩm không phải mở phiên toà, không phải triệu
tập các đương sự, trừ trường hợp cần phải nghe ý kiến của họ trước khi ra quyết
định.
2. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên họp phúc thẩm
quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị.
3. Một thành viên của Hội đồng phúc thẩm xét quyết định bị kháng cáo,
kháng nghị trình bày tóm tắt nội dung quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng
nghị, nội dung của kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu
có.
4. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết
kháng cáo, kháng nghị trước khi Hội đồng phúc thẩm ra quyết định.
5. Khi xem xét quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng
nghị, Hội đồng phúc thẩm có quyền:
a) Giữ nguyên quyết định của Toà án cấp sơ thẩm;
b) Sửa quyết định của Toà án cấp sơ thẩm;
c) Huỷ quyết định của Toà án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà
án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án.
6. Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày ra bản án, quyết định phúc
thẩm, Toà án cấp phúc thẩm phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho Toà án đã
xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm
quyền, người đã kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ.
Trong trường hợp Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm
thì thời hạn này có thể dài hơn nhưng không quá hai mươi lăm ngày.
THỦ TỤC XÉT LẠI BẢN ÁN,
QUYẾT ĐỊNH ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT
Chương XVIII
THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM
Điều 282. Tính chất
của giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
trong việc giải quyết vụ án.
Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án;
2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Điều 284. Phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo
thủ tục giám đốc thẩm
1. Đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền phát hiện vi
phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật và
thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều
285 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, Viện kiểm sát, Toà án phải thông báo
bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 285 của Bộ
luật này.
1. Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội
đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
2. Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện.
1. Người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án có quyền yêu cầu hoãn thi hành bản án, quyết định để xem
xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc hoãn thi hành án được thực
hiện theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự.
2. Người đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết
định đó cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.
Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm phải có các nội dung chính sau đây:
1. Số, ngày, tháng, năm của quyết định kháng nghị;
2. Chức vụ của người ra quyết định kháng nghị;
3. Số, ngày, tháng, năm của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
bị kháng nghị;
4. Quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị;
5. Nhận xét, phân tích những vi phạm, sai lầm của bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;
6. Căn cứ pháp luật để quyết định kháng nghị;
7. Quyết định kháng nghị một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật;
8. Tên của Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm vụ án đó;
9. Đề nghị của người kháng nghị.
Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ được tiến hành
việc kháng nghị trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án
có hiệu lực pháp luật.
1. Người đã kháng nghị giám đốc thẩm có quyền thay đổi, bổ sung quyết
định kháng nghị, nếu chưa hết thời hạn kháng nghị quy định tại Điều 288 của Bộ
luật này.
2. Người đã kháng nghị có quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định
kháng nghị trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà giám đốc thẩm.
1. Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm phải được gửi ngay cho Toà án ra
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các đương sự, cơ
quan thi hành án dân sự có thẩm quyền và những người khác có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến nội dung kháng nghị.
2. Trong trường hợp Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Chánh án Toà
án nhân dân cấp tỉnh kháng nghị thì quyết định kháng nghị cùng hồ sơ vụ án phải
được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp. Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ trong
thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án; hết thời hạn đó, Viện
kiểm sát phải chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm.
3. Trong trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh kháng nghị thì quyết định kháng
nghị phải được gửi ngay cho Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm.
1. Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện bị kháng
nghị.
2. Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động của Toà án nhân dân tối cao
giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân
dân cấp tỉnh bị kháng nghị.
3. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà dân sự, Toà
kinh tế, Toà lao động của Toà án nhân dân tối cao bị kháng nghị.
4. Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án
dân sự thuộc thẩm quyền của các cấp Toà án khác nhau được quy định tại khoản 1
và khoản 2 Điều này thì Toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ
án.
1. Phiên toà giám đốc thẩm phải có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng
cấp.
2. Khi xét thấy cần thiết, Toà án triệu tập những người tham gia tố
tụng và những người khác có liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên toà
giám đốc thẩm.
Trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị kèm theo hồ
sơ vụ án, Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm phải mở phiên toà để giám đốc thẩm
vụ án.
Chánh án Toà án phân công một Thẩm phán làm bản thuyết trình về vụ án
tại phiên toà. Bản thuyết trình tóm tắt nội dung vụ án và các bản án, quyết
định của các cấp Toà án, nội dung của kháng nghị. Bản thuyết trình phải được
gửi trước cho các thành viên Hội đồng giám đốc thẩm chậm nhất là bảy ngày trước
ngày mở phiên toà giám đốc thẩm.
1. Sau khi chủ toạ khai mạc phiên toà, một thành viên của Hội đồng giám
đốc thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án, quyết định
của bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các
căn cứ, nhận định của kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị. Đại diện Viện
kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về quyết định kháng nghị.
2. Trong trường hợp có người tham gia tố tụng hoặc người khác được Toà
án triệu tập tham gia phiên toà giám đốc thẩm thì họ được trình bày ý kiến của
mình về quyết định kháng nghị. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát về quyết định kháng nghị.
3. Các thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm thảo luận và phát biểu ý
kiến của mình về việc giải quyết vụ án. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến
của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
4. Hội đồng giám đốc thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án.
Quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh
hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành
viên của Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành.
Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao biểu quyết theo trình tự tán thành, không tán thành với
kháng nghị và ý kiến khác; nếu không có trường hợp nào được quá nửa tổng số
thành viên của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành thì phải hoãn phiên toà.
Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà, Uỷ ban
Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán phải tiến hành xét xử lại với sự tham gia của
toàn thể các thành viên.
1. Hội đồng giám đốc thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc
xem xét nội dung kháng nghị.
2. Hội đồng giám đốc thẩm có quyền xem xét phần quyết định của bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không có liên quan
đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết định đó xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án.
Hội đồng giám đốc thẩm có các quyền sau đây:
1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật;
2. Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã
bị huỷ hoặc bị sửa;
3. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm
lại hoặc xét xử phúc thẩm lại;
4. Huỷ bản án, quyết định của Toà án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải
quyết vụ án.
Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp
dưới xét xử đúng pháp luật, nhưng đã bị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật bị kháng nghị huỷ bỏ hoặc sửa đổi một phần hay toàn bộ.
Điều 299. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét
xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại
Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại
trong các trường hợp sau đây:
1. Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa thực hiện đầy đủ hoặc
không theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật này;
2. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật;
3. Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không đúng quy
định của Bộ luật này hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
Hội đồng giám đốc thẩm quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án, nếu vụ án đó thuộc một trong các trường
hợp quy định tại Điều 192 của Bộ luật này.
1. Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định nhân danh nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
2. Quyết định giám đốc thẩm phải có các nội dung sau đây:
a) Ngày, tháng, năm và địa điểm mở phiên toà;
b) Họ, tên các thành viên Hội đồng giám đốc thẩm. Trường hợp Hội đồng
giám đốc thẩm là Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao thì ghi họ, tên, chức vụ của chủ toạ phiên toà và
số lượng thành viên tham gia xét xử;
c) Họ, tên Thư ký Toà án, Kiểm sát viên tham gia phiên toà;
d) Tên vụ án mà Hội đồng đưa ra xét xử giám đốc thẩm;
đ) Tên, địa chỉ của các đương sự trong vụ án;
e) Tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị;
g) Quyết định kháng nghị, lý do kháng nghị;
h) Nhận định của Hội đồng giám đốc thẩm trong đó phải phân tích những
căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng nghị;
i) Điểm, khoản, điều của Bộ luật tố tụng dân sự mà Hội đồng giám đốc
thẩm căn cứ để ra quyết định;
k) Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm.
Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng giám
đốc thẩm ra quyết định.
Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng
giám đốc thẩm phải gửi quyết định giám đốc thẩm cho:
1. Đương sự và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo
quyết định giám đốc thẩm;
2. Toà án ra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;
3. Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
THỦ TỤC TÁI THẨM
Điều 304. Tính chất
của tái thẩm
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng
bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ
bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được khi
Toà án ra bản án, quyết định đó.
Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã
không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
2. Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người
phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
3. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ
vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
4. Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án hoặc quyết định của cơ quan
nhà nước mà Toà án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ bỏ.
1. Đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền phát hiện tình
tiết mới của vụ án và thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng
nghị quy định tại Điều 307 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp phát hiện tình tiết mới của vụ án, Viện kiểm sát,
Toà án phải thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định
tại Điều 307 của Bộ luật này.
1. Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao.
2. Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Toà án nhân dân cấp huyện.
3. Người đã kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có
quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có
quyết định tái thẩm.
Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là một năm, kể từ ngày người
có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
quy định tại Điều 305 của Bộ luật này.
Hội đồng tái thẩm có các quyền sau đây:
1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật;
2. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm
lại theo thủ tục do Bộ luật này quy định;
3. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải
quyết vụ án.
Các quy định khác về thủ tục tái thẩm được thực hiện như các quy định
về thủ tục giám đốc thẩm tại Bộ luật này.
Phần thứ năm
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN
SỰ
QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỦ TỤC
GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ
Điều 311. Phạm vi áp
dụng
Toà án áp dụng những quy định của Chương này, đồng thời áp dụng những
quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này để
giải quyết những việc dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 6 Điều 26,
các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 7 Điều 28, khoản 1 và khoản 4 Điều 30, khoản 3 Điều
32 của Bộ luật này.
Việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp,
nhưng có yêu cầu Toà án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là
căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu
Toà án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động.
1. Người yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự phải gửi đơn đến Toà án
có thẩm quyền quy định tại mục 2 Chương III của Bộ luật này.
2. Đơn yêu cầu phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm viết đơn;
b) Tên Toà án có thẩm quyền giải quyết đơn;
c) Tên, địa chỉ của người yêu cầu;
d) Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết và lý do, mục đích,
căn cứ của việc yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự đó;
đ) Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến việc giải quyết đơn
yêu cầu, nếu có;
e) Các thông tin khác mà người yêu cầu xét thấy cần thiết cho việc giải
quyết yêu cầu;
g) Người yêu cầu là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ, nếu là cơ quan,
tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu
vào phần cuối đơn.
3. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu
cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
1. Toà án phải mở phiên họp công khai để giải quyết việc dân sự.
Sau khi ra quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, Toà án phải
gửi ngay quyết định này và hồ sơ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để
nghiên cứu. Viện kiểm sát phải nghiên cứu trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày
nhận được hồ sơ; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Toà án để
mở phiên họp giải quyết việc dân sự.
2. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham dự phiên họp; trường
hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên họp.
3. Người có đơn yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp của họ phải tham
gia phiên họp theo giấy triệu tập của Toà án.
Người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì Toà
án hoãn phiên họp. Trường hợp người có đơn yêu cầu đề nghị giải quyết việc dân
sự không có sự tham gia của họ thì Toà án giải quyết việc dân sự vắng mặt họ;
nếu người có đơn yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết
việc dân sự; trong trường hợp này, quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự
đó theo thủ tục do Bộ luật này quy định vẫn được bảo đảm.
4. Người có liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ được Toà án
triệu tập tham gia phiên họp. Trong trường hợp cần thiết, Toà án có thể triệu
tập người làm chứng, người giám định, người phiên dịch tham gia phiên họp; nếu
có người vắng mặt thì Toà án quyết định hoãn phiên họp hoặc vẫn tiến hành phiên
họp.
1. Phiên họp giải quyết việc dân sự được tiến hành theo trình tự sau
đây:
a) Thư ký Toà án báo cáo về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia
phiên họp;
b) Thẩm phán khai mạc phiên họp, kiểm tra về sự có mặt, vắng mặt của
những người được triệu tập tham gia phiên họp và căn cước của họ;
c) Người yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày về những
vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết, lý do, mục đích và căn cứ của việc yêu
cầu Toà án giải quyết việc dân sự đó;
d) Người có liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày ý
kiến của mình về những vấn đề có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của họ trong
việc giải quyết việc dân sự;
đ) Người làm chứng trình bày ý kiến; người giám định trình bày kết luận
giám định, giải thích những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn;
e) Xem xét tài liệu, chứng cứ;
g) Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết
việc dân sự;
h) Thẩm phán xem xét, quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu
giải quyết việc dân sự.
2. Trong trường hợp có người vắng mặt thì Thẩm phán cho công bố lời
khai, tài liệu, chứng cứ do người đó cung cấp hoặc đã khai với Toà án.
1. Quyết định giải quyết việc dân sự phải có các nội dung sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định;
b) Tên Toà án ra quyết định;
c) Họ, tên của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án;
d) Tên, địa chỉ của người yêu cầu giải quyết việc dân sự;
đ) Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết;
e) Tên, địa chỉ của người có liên quan;
g) Nhận định của Toà án và những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp
nhận đơn yêu cầu;
h) Căn cứ pháp luật để giải quyết việc dân sự;
i) Quyết định của Toà án;
k) Lệ phí phải nộp.
2. Quyết định giải quyết việc dân sự phải được gửi cho Viện kiểm sát
cùng cấp, cơ quan thi hành án có thẩm quyền, người yêu cầu giải quyết việc dân
sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết định
đó trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định.
Người yêu cầu và cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến quyết định giải quyết việc dân sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát
cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị quyết định giải
quyết việc dân sự để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ
tục phúc thẩm, trừ các quyết định quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 28 của Bộ
luật này.
1. Người yêu cầu và cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến quyết định giải quyết việc dân sự có quyền kháng cáo quyết định
đó trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định, trừ trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều 358 và khoản 1 Điều 372 của Bộ luật này. Trong trường hợp
họ không có mặt tại phiên họp thì thời hạn đó tính từ ngày họ nhận được quyết
định giải quyết việc dân sự hoặc kể từ ngày quyết định đó được thông báo, niêm
yết.
2. Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định giải quyết
việc dân sự trong thời hạn bảy ngày, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền
kháng nghị trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 358 và khoản 2 Điều 372 của Bộ luật này.
Thủ tục phúc thẩm quyết định giải quyết việc dân sự bị kháng cáo, kháng
nghị được thực hiện theo quy định tại Điều 280 của Bộ luật này.
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU
TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI MẤT NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ HOẶC BỊ HẠN CHẾ NĂNG LỰC HÀNH VI
DÂN SỰ
Điều 319. Đơn yêu
cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự
1. Người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan có
quyền yêu cầu Toà án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự
hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có đủ các nội dung quy định tại
khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Kèm theo đơn yêu cầu Toà án tuyên bố một người mất năng lực hành vi
dân sự phải có kết luận của cơ quan chuyên môn và các chứng cứ khác để chứng
minh người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình.
4. Kèm theo đơn yêu cầu Toà án tuyên bố một người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự phải có chứng cứ để chứng minh người đó nghiện ma tuý hoặc
nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình.
1. Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu Toà án tuyên bố một người mất năng
lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không quá ba mươi
ngày, kể từ ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu; hết thời hạn đó, Toà án phải ra
quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
2. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, theo đề nghị của đương sự,
Toà án có thể trưng cầu giám định sức khoẻ, bệnh tật của người bị yêu cầu tuyên
bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trong
trường hợp này, khi nhận được kết luận giám định Toà án phải ra quyết định mở
phiên họp để xét đơn yêu cầu.
3. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, nếu người yêu cầu rút đơn
yêu cầu thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu.
4. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp,
Thẩm phán phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Điều 321. Quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự
1. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu tuyên bố
một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
2. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Trong quyết định tuyên bố bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, Toà án
phải quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
Điều 322. Đơn yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi
dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
1. Khi người bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự không còn ở trong tình trạng đã bị tuyên bố thì
chính người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu
quan có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có đủ các nội dung quy định
tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
1. Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu Toà án huỷ bỏ quyết định tuyên bố
mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được thực
hiện theo quy định tại Điều 320 của Bộ luật này.
2. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu huỷ bỏ
quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự.
3. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định huỷ
bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự.
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU
THÔNG BÁO TÌM KIẾM NGƯỜI VẮNG MẶT TẠI NƠI CƯ TRÚ
Điều 324. Đơn yêu
cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án thông báo
tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú khi người đó biệt tích trong sáu tháng
liền trở lên và đồng thời có thể yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp quản lý tài
sản của người vắng mặt đó theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú
phải có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn yêu cầu Toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt
tại nơi cư trú phải có chứng cứ để chứng minh là người đó biệt tích trong sáu
tháng liền trở lên. Trong trường hợp có yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp quản
lý tài sản của người vắng mặt thì phải cung cấp tài liệu về tình hình tài sản
của người đó, việc quản lý tài sản hiện có và danh sách những người thân thích
của người đó.
1. Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt
tại nơi cư trú là hai mươi ngày, kể từ ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu; hết thời
hạn đó, Toà án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
2. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Toà án ra quyết định đình
chỉ xét đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, nếu người
yêu cầu rút đơn yêu cầu hoặc người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm trở về và yêu
cầu Toà án đình chỉ việc xét đơn yêu cầu.
3. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp,
Thẩm phán phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
1. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu thông báo
tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú.
2. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định chấp
nhận đơn yêu cầu và ra thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú; trường
hợp có yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt đó
tại nơi cư trú và được chấp nhận thì trong quyết định chấp nhận đơn yêu cầu Toà
án còn phải quyết định áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người đó theo quy
định của Bộ luật dân sự.
Thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú phải có các nội dung
chính sau đây:
1. Ngày, tháng, năm ra thông báo;
2. Tên Toà án ra thông báo;
3. Số và ngày, tháng, năm của quyết định Toà án chấp nhận đơn yêu cầu
thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú;
4. Tên, địa chỉ của người yêu cầu Toà án thông báo;
5. Họ, tên và ngày, tháng, năm sinh hoặc tuổi của người cần tìm kiếm và
địa chỉ cư trú của người đó trước khi biệt tích;
6. Địa chỉ liên hệ của cá nhân, cơ quan, tổ chức, nếu người cần tìm
kiếm biết được thông báo hoặc người khác có được tin tức về người cần tìm kiếm.
1. Thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú phải được đăng trên
báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp và phát sóng trên Đài phát
thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong ba ngày liên tiếp.
2. Chi phí cho việc đăng, phát thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại
nơi cư trú do người yêu cầu chịu.
Quyết định thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú quy định
tại Điều 326 của Bộ luật này đương nhiên hết hiệu lực trong trường hợp người
cần tìm kiếm trở về.
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU
TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI MẤT TÍCH
Điều 330. Đơn yêu
cầu tuyên bố một người mất tích
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố
một người mất tích theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án tuyên bố một người mất tích phải có đủ các nội
dung quy định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu
tuyên bố mất tích đã biệt tích hai năm liền trở lên mà không có tin tức xác
thực về việc người đó còn sống hoặc đã chết và chứng minh cho việc người yêu
cầu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo tìm kiếm. Trong trường hợp trước
đó đã có quyết định của Toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú
thì phải có bản sao quyết định đó.
1. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố
một người mất tích, Toà án ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu
tuyên bố mất tích.
2. Nội dung thông báo và công bố thông báo được thực hiện theo quy định
tại Điều 327 và Điều 328 của Bộ luật này. Thời hạn thông báo là bốn tháng, kể
từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên.
3. Trong thời hạn công bố thông báo, nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu
hoặc người bị yêu cầu tuyên bố mất tích trở về và yêu cầu Toà án đình chỉ việc
xét đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu tuyên bố
một người mất tích.
1. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hết thời hạn công bố thông
báo, Toà án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích.
2. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu.
3. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định
tuyên bố mất tích; trường hợp có yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp quản lý tài
sản của người bị tuyên bố mất tích đó và được chấp nhận thì trong quyết định
Toà án còn phải quyết định áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người đó theo
quy định của Bộ luật dân sự.
1. Khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là
người đó còn sống thì người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có quyền
yêu cầu Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích.
2. Đơn yêu cầu Toà án huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích phải
có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là chứng cứ để chứng minh người bị tuyên bố
mất tích đã trở về hoặc chứng minh xác thực là người đó còn sống.
1. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu huỷ bỏ
quyết định tuyên bố một người mất tích, Toà án phải mở phiên họp xét đơn yêu
cầu.
2. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu.
3. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định huỷ
bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích, trong đó phải quyết định về hậu quả
pháp lý của việc huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích theo quy định
của Bộ luật dân sự.
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU
TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI LÀ ĐÃ CHẾT
Điều 335. Đơn yêu
cầu tuyên bố một người là đã chết
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố
một người là đã chết theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Đơn yêu cầu Toà án tuyên bố một người là đã chết phải có đủ các nội
dung quy định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu
tuyên bố là đã chết thuộc trường hợp theo quy định của Bộ luật dân sự.
1. Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu tuyên bố một người là đã chết
không quá ba mươi ngày, kể từ ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu; hết thời hạn đó,
Toà án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
2. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Toà án ra quyết định đình
chỉ việc xét đơn yêu cầu tuyên bố một người là đã chết nếu người yêu cầu rút
đơn yêu cầu hoặc người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết trở về và yêu cầu Toà án
đình chỉ việc xét đơn yêu cầu.
3. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Toà
án phải mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
1. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu tuyên bố
một người là đã chết.
2. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định
tuyên bố một người là đã chết; trong quyết định này, Toà án phải xác định ngày
chết của người đó và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố một người là đã chết
theo quy định của Bộ luật dân sự.
1. Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực
là người đó còn sống thì người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có
quyền yêu cầu Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã
chết.
2. Đơn yêu cầu Toà án huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết
phải có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 312 của Bộ luật này.
3. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là chứng cứ để chứng minh người bị tuyên bố
là đã chết trở về hoặc chứng minh xác thực là người đó còn sống.
1. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu huỷ bỏ
quyết định tuyên bố một người là đã chết, Toà án phải mở phiên họp xét đơn yêu
cầu.
2. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu.
3. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định huỷ
bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết; trong quyết định này, Toà án phải
quyết định về hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là
đã chết theo quy định của Bộ luật dân sự.
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VIỆC
DÂN LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Điều 340. Những việc
dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án
1. Chỉ định, thay đổi Trọng tài viên.
2. Áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
3. Huỷ quyết định trọng tài.
4. Các việc dân sự khác mà pháp luật về Trọng tài thương mại Việt Nam
có quy định.
Thủ tục giải quyết các việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài
thương mại Việt Nam được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài
thương mại Việt Nam.
THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI
HÀNH TẠI VIỆT NAM BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN NƯỚC NGOÀI, QUYẾT ĐỊNH
CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI
Chương XXVI
QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỦ TỤC
CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN
NƯỚC NGOÀI, QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI
Điều 342. Bản án,
quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài
1. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài là bản án, quyết
định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, quyết
định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Toà án nước
ngoài và bản án, quyết định khác của Toà án nước ngoài mà theo pháp luật của
Việt Nam được coi là bản án, quyết định dân sự.
2. Quyết định của Trọng tài nước ngoài là quyết định được tuyên ở ngoài
lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam của Trọng tài nước ngoài do các
bên thoả thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp
luật kinh doanh, thương mại, lao động.
Điều 343. Nguyên tắc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà
án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài
1. Toà án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản
án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài trong các trường hợp sau đây:
a) Bản án, quyết định dân sự của Toà án của nước mà Việt Nam và nước đó
đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề này;
b) Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài được pháp luật Việt
Nam quy định công nhận và cho thi hành.
2. Toà án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết
định của Trọng tài nước ngoài trong trường hợp quyết định được tuyên tại nước
hoặc của Trọng tài của nước mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc
tế về vấn đề này.
3. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của
Trọng tài nước ngoài cũng có thể được Toà án Việt Nam xem xét công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam trên cơ sở có đi có lại mà không đòi hỏi Việt Nam và nước
đó phải ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề đó.
4. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài hoặc quyết định của
Trọng tài nước ngoài chỉ được thi hành tại Việt Nam sau khi được Toà án Việt
Nam công nhận và cho thi hành.
5. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi
hành tại Việt Nam và không có đơn yêu cầu không công nhận thì đương nhiên được
công nhận tại Việt Nam theo điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.
6. Toà án Việt Nam chỉ xem xét việc không công nhận bản án, quyết định
dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam khi có đơn
yêu cầu không công nhận.
Điều 344. Quyền yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của
Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài
1. Người được thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền gửi
đơn yêu cầu Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án,
quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài,
nếu cá nhân phải thi hành cư trú, làm việc tại Việt Nam hoặc cơ quan, tổ chức
phải thi hành có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc tài sản liên quan đến việc thi
hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài
nước ngoài có tại Việt Nam vào thời điểm gửi đơn yêu cầu.
2. Đương sự, người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án Việt Nam không công nhận
bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại
Việt Nam.
Đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị quyết
định của Toà án Việt Nam công nhận hoặc không công nhận bản án, quyết định dân
sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài để yêu cầu Toà án
cấp trên trực tiếp xét lại theo quy định của Bộ luật này.
Điều 346. Bảo đảm hiệu lực của quyết định của Toà án Việt Nam công nhận hoặc
không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của
Trọng tài nước ngoài
1. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài được Toà án Việt Nam
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam có hiệu lực pháp luật như bản án, quyết
định dân sự của Toà án Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật và được thi hành theo
thủ tục thi hành án dân sự. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài
không được Toà án Việt Nam công nhận thì không có hiệu lực pháp luật tại Việt Nam.
2. Quyết định của Trọng tài nước ngoài được Toà án Việt Nam công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam có hiệu lực pháp luật như quyết định của Toà án
Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật và được thi hành theo thủ tục thi hành án dân
sự.
Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày ra quyết định, Toà án Việt Nam
thông qua Bộ Tư pháp thông báo kết quả việc xét đơn yêu cầu công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài cho Toà
án nước ngoài đã ra bản án, quyết định đó, các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan đến quyết định đó; thông báo kết quả xét đơn yêu cầu công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài cho cá
nhân, cơ quan, tổ chức đã gửi đơn yêu cầu và cá nhân, cơ quan tổ chức khác có
liên quan đến quyết định đó của Toà án Việt Nam.
Điều 348. Bảo đảm quyền chuyển tiền, tài sản thi hành bản án, quyết định dân sự
của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài
Nhà nước Việt Nam bảo đảm việc chuyển tiền, tài sản thi hành bản án,
quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã
được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành từ Việt Nam ra nước ngoài. Việc
chuyển tiền, tài sản này được thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Điều 349. Lệ phí công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án
nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài
Người gửi đơn yêu cầu Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng
tài nước ngoài phải nộp một khoản lệ phí theo quy định của pháp luật Việt Nam.
THỦ TỤC XÉT ĐƠN YÊU CẦU CÔNG
NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN NƯỚC
NGOÀI
Điều 350. Đơn yêu
cầu công nhận và cho thi hành
1. Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của Toà án nước ngoài phải được gửi đến Bộ Tư pháp Việt Nam và phải
có các nội dung chính sau đây:
a) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được thi
hành, người đại diện hợp pháp của người đó; nếu người được thi hành án là cơ
quan, tổ chức thì phải ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ
chức đó;
b) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người phải thi
hành; nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức thì ghi đầy đủ tên và địa chỉ
trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp người phải thi hành là cá nhân
không có nơi cư trú hoặc nơi làm việc tại Việt Nam, người phải thi hành là cơ
quan, tổ chức không có trụ sở chính tại Việt Nam thì trong đơn yêu cầu còn phải
ghi rõ địa chỉ nơi có tài sản và các loại tài sản liên quan đến việc thi hành
bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài tại Việt Nam;
c) Yêu cầu của người được thi hành; trường hợp bản án, quyết định của
Toà án nước ngoài đã được thi hành một phần thì người được thi hành phải ghi rõ
phần đã được thi hành và phần còn lại có yêu cầu công nhận và cho thi hành tiếp
tại Việt Nam.
3. Đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được gửi kèm theo bản dịch ra
tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
1. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là các giấy tờ, tài liệu được quy định
trong điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Trong trường hợp điều
ước quốc tế không quy định hoặc không có điều ước quốc tế liên quan thì kèm
theo đơn yêu cầu phải có bản sao hợp pháp bản án, quyết định của Toà án nước
ngoài; văn bản xác nhận bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật, chưa hết
thời hiệu thi hành và cần được thi hành tại Việt Nam, trừ trường hợp trong bản
án, quyết định đó đã thể hiện rõ những điểm này; văn bản xác nhận việc đã gửi
cho người phải thi hành bản sao bản án, quyết định đó. Trường hợp người phải
thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó vắng mặt tại phiên toà của
Toà án nước ngoài thì phải có văn bản xác nhận người đó đã được triệu tập hợp
lệ.
2. Các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài
phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp
pháp.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, các giấy tờ,
tài liệu kèm theo, Bộ Tư pháp phải chuyển hồ sơ đến Toà án có thẩm quyền theo
quy định tại Điều 34 và Điều 35 của Bộ luật này.
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Bộ Tư
pháp chuyển đến, Toà án có thẩm quyền phải thụ lý và thông báo cho Viện kiểm
sát cùng cấp biết.
2. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Toà án có quyền yêu cầu
người gửi đơn, Toà án nước ngoài đã ra bản án, quyết định giải thích những điểm
chưa rõ trong hồ sơ.
Văn bản yêu cầu giải thích và văn bản trả lời được gửi thông qua Bộ Tư
pháp Việt Nam.
3. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của Toà án
Việt Nam yêu cầu giải thích, Bộ Tư pháp gửi cho người gửi đơn yêu cầu hoặc Toà
án nước ngoài văn bản yêu cầu giải thích đó.
4. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lời yêu
cầu giải thích, Bộ Tư pháp gửi cho Toà án Việt Nam đã yêu cầu văn bản trả lời
đó.
1. Trong thời hạn bốn tháng kể từ ngày thụ lý, tuỳ từng trường hợp mà
Toà án ra một trong các quyết định sau đây:
a) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu, nếu người gửi đơn rút đơn yêu cầu
hoặc người phải thi hành đã tự nguyện thi hành hoặc người phải thi hành là cá
nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của người đó không được thừa kế hoặc nếu người
phải thi hành là cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà quyền, nghĩa vụ
của cơ quan, tổ chức đó đã được giải quyết theo quy định của pháp luật Việt
Nam;
b) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu và trả lại hồ sơ cho Bộ Tư pháp trong
trường hợp không đúng thẩm quyền hoặc không xác định được địa chỉ của người
phải thi hành hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành;
c) Mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Trong trường hợp Toà án yêu cầu giải thích theo quy định tại khoản 2
Điều 353 của Bộ luật này thì thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu được kéo dài
thêm hai tháng.
2. Toà án phải mở phiên họp trong thời hạn một tháng, kể từ ngày ra
quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Toà án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời
hạn mười lăm ngày trước ngày mở phiên họp; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải
gửi trả lại hồ sơ cho Toà án để mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
1. Việc xét đơn yêu cầu được tiến hành tại phiên họp do một Hội đồng
xét đơn yêu cầu gồm ba Thẩm phán, trong đó một Thẩm phán làm chủ toạ theo sự
phân công của Chánh án Toà án.
2. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường
hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên họp.
3. Phiên họp được tiến hành với sự có mặt của người phải thi hành hoặc
người đại diện hợp pháp của họ; nếu họ vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính
đáng thì phải hoãn phiên họp.
Việc xét đơn yêu cầu vẫn được tiến hành nếu người phải thi hành hoặc
người đại diện hợp pháp của họ có đơn yêu cầu Toà án xét đơn vắng mặt hoặc đã
được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
4. Hội đồng không xét xử lại vụ án mà chỉ kiểm tra, đối chiếu bản án,
quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, các giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn yêu
cầu với các quy định của Bộ luật này, các quy định khác của pháp luật Việt Nam
và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có liên quan để quyết
định.
5. Sau khi xem xét đơn yêu cầu, các giấy tờ, tài liệu kèm theo, nghe ý
kiến của người được triệu tập, của Kiểm sát viên, Hội đồng thảo luận và quyết
định theo đa số.
Hội đồng có quyền ra quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
hoặc quyết định không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước
ngoài.
Điều 356. Những bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không được công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam
1. Bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật theo quy định
của pháp luật của nước có Toà án đã ra bản án, quyết định đó.
2. Người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó đã
vắng mặt tại phiên toà của Toà án nước ngoài do không được triệu tập hợp lệ.
3. Vụ án thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của Toà án Việt Nam.
4. Về cùng vụ án này đã có bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án Việt Nam hoặc của Toà án nước ngoài đã được Toà án Việt
Nam công nhận hoặc trước khi cơ quan xét xử của nước ngoài thụ lý vụ án, Toà án
Việt Nam đã thụ lý và đang giải quyết vụ án đó.
5. Đã hết thời hiệu thi hành án theo pháp luật của nước có Toà án đã ra
bản án, quyết định dân sự đó hoặc theo pháp luật Việt Nam.
6. Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án
nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Ngay sau khi ra quyết định quy định tại Điều 354 và Điều 355 của Bộ
luật này, Toà án gửi cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp quyết định đó;
nếu đương sự ở nước ngoài thì quyết định được gửi thông qua Bộ Tư pháp.
1. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày Toà án ra quyết định quy
định tại Điều 354 và Điều 355 của Bộ luật này, đương sự, người đại diện hợp
pháp của họ có quyền kháng cáo quyết định đó; trường hợp đương sự, người đại
diện hợp pháp của họ không có mặt tại phiên họp xét đơn yêu cầu thì thời hạn
kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được quyết định đó. Đơn kháng cáo phải nêu
rõ lý do và yêu cầu kháng cáo.
Trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm
cho đương sự, người đại diện hợp pháp của họ không thể kháng cáo trong thời hạn
nêu trên thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó
không tính vào thời hạn kháng cáo.
2. Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền
kháng nghị quyết định của Toà án quy định tại Điều 354 và Điều 355 của Bộ luật
này.
Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao là ba mươi ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết
định.
1. Toà án nhân dân tối cao xét quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh
bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ;
trường hợp cần phải yêu cầu giải thích theo quy định tại Điều 353 của Bộ luật
này thì thời hạn này được kéo dài, nhưng không quá hai tháng.
2. Thành phần Hội đồng xét quyết định bị kháng cáo, kháng nghị gồm ba
Thẩm phán, trong đó một Thẩm phán làm chủ toạ theo sự phân công của Chánh toà
Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao.
Phiên họp xét lại quyết định bị kháng cáo, kháng nghị được tiến hành
như phiên họp xét đơn yêu cầu quy định tại Điều 355 của Bộ luật này.
3. Hội đồng có quyền giữ nguyên, sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định
của Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc đình chỉ việc xét kháng cáo, kháng nghị trong
trường hợp đương sự rút kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng nghị hoặc có căn cứ
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 354 của Bộ luật này.
Quyết định của Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng và có
hiệu lực thi hành.
THỦ TỤC XÉT ĐƠN YÊU CẦU
KHÔNG CÔNG NHẬN BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN NƯỚC NGOÀI KHÔNG CÓ YÊU
CẦU THI HÀNH TẠI VIỆT NAM
Điều 360. Thời hạn
gửi đơn yêu cầu không công nhận
1. Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày nhận được bản án, quyết định
dân sự của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam, đương
sự, người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của
họ có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án Việt Nam không công nhận bản án, quyết định
dân sự đó đến Bộ Tư pháp Việt Nam.
2. Trong trường hợp người làm đơn chứng minh được vì sự kiện bất khả
kháng hoặc trở ngại khách quan mà không thể gửi đơn đúng thời hạn quy định tại
khoản 1 Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách
quan đó không tính vào thời hạn gửi đơn.
Việc khôi phục thời hiệu do Chánh án Toà án thụ lý đơn xét và quyết
định.
1. Đơn yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án
nước ngoài phải có các nội dung chính sau đây:
a) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người làm đơn; nếu
là cơ quan, tổ chức thì ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ
chức đó;
b) Yêu cầu của người làm đơn.
2. Kèm theo đơn yêu cầu phải có bản sao hợp pháp bản án, quyết định dân
sự của Toà án nước ngoài và các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh yêu
cầu không công nhận của mình là có căn cứ.
3. Đơn yêu cầu và các giấy tờ, tài liệu kèm theo bằng tiếng nước ngoài
phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp
pháp.
4. Việc chuyển đơn yêu cầu và các giấy tờ, tài liệu kèm theo đến Toà án
có thẩm quyền được thực hiện theo quy định tại Điều 352 của Bộ luật này.
1. Việc chuẩn bị xét đơn yêu cầu và việc xét đơn yêu cầu không công
nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài được tiến hành theo quy
định tại Điều 354 và Điều 355 của Bộ luật này.
2. Hội đồng xét đơn yêu cầu có quyền ra một trong các quyết định sau
đây:
a) Không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài;
b) Bác đơn yêu cầu không công nhận.
3. Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi
hành tại Việt Nam không được công nhận trong các trường hợp quy định tại Điều
356 của Bộ luật này.
Việc gửi quyết định của Toà án; việc kháng cáo, kháng nghị và xét kháng
cáo, kháng nghị được thực hiện theo quy định tại các điều 357, 358 và 359 của
Bộ luật này.
THỦ TỤC XÉT ĐƠN YÊU CẦU CÔNG
NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI
Điều 364. Đơn yêu
cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài
1. Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của
Trọng tài nước ngoài phải được gửi đến Bộ Tư pháp Việt Nam và phải có các nội
dung chính sau đây:
a) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được thi
hành, người đại diện hợp pháp tại Việt Nam của người đó; nếu người được thi
hành án là cơ quan, tổ chức thì phải ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của
cơ quan, tổ chức đó;
b) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người phải thi
hành; nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức thì ghi đầy đủ tên và địa chỉ
trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp người phải thi hành là cá nhân
không có nơi cư trú hoặc nơi làm việc tại Việt Nam, người phải thi hành là cơ
quan, tổ chức không có trụ sở chính tại Việt Nam thì trong đơn yêu cầu còn phải
ghi rõ địa chỉ nơi có tài sản và các loại tài sản liên quan đến việc thi hành
quyết định của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam;
c) Yêu cầu của người được thi hành.
2. Đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được gửi kèm theo bản dịch ra
tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
1. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là các giấy tờ, tài liệu được quy định tại
điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Trong trường hợp điều ước
quốc tế không quy định hoặc không có điều ước quốc tế liên quan thì kèm theo
đơn yêu cầu phải có bản sao hợp pháp quyết định của Trọng tài nước ngoài; bản
sao hợp pháp thoả thuận trọng tài của các bên về việc giải quyết tranh chấp có
thể hoặc đã phát sinh giữa họ với nhau theo thể thức trọng tài mà pháp luật của
nước hữu quan quy định có thể giải quyết được theo thể thức đó.
Thoả thuận trọng tài có thể là điều khoản về Trọng tài đã được ghi
trong hợp đồng hoặc thoả thuận riêng về Trọng tài được các bên ký kết sau khi
phát sinh tranh chấp.
2. Giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài thì
phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp
pháp.
1. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, các giấy
tờ, tài liệu kèm theo, Bộ Tư pháp chuyển hồ sơ cho Toà án có thẩm quyền theo
quy định tại Điều 34 và Điều 35 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp Bộ Tư pháp đã chuyển hồ sơ cho Toà án mà sau đó lại
nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho biết đang xem
xét hoặc đã huỷ bỏ, đình chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài thì
Bộ Tư pháp thông báo ngay bằng văn bản cho Toà án biết.
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Bộ Tư
pháp chuyển đến, Toà án có thẩm quyền phải thụ lý và thông báo cho cá nhân, cơ
quan, tổ chức phải thi hành và Viện kiểm sát cùng cấp biết.
2. Toà án có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đã gửi đơn yêu cầu
giải thích những điểm chưa rõ trong hồ sơ.
1. Trong thời hạn hai tháng kể từ ngày thụ lý, tuỳ từng trường hợp mà
Toà án ra một trong các quyết định sau đây:
a) Tạm đình chỉ việc xét đơn yêu cầu trong trường hợp nhận được thông
báo bằng văn bản của Bộ Tư pháp về việc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài
đang xem xét quyết định của Trọng tài nước ngoài;
b) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu, nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức được
thi hành rút đơn yêu cầu hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành đã tự
nguyện thi hành; cơ quan, tổ chức phải thi hành đã bị giải thể, phá sản mà
quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó đã được giải quyết theo quy định của
pháp luật Việt Nam hoặc cá nhân phải thi hành đã chết mà quyền, nghĩa vụ của
người đó không được thừa kế;
c) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu trong trường hợp nhận được thông báo
bằng văn bản của Bộ Tư pháp về việc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã huỷ
bỏ hoặc đình chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài;
d) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu và trả lại hồ sơ cho Bộ Tư pháp trong
trường hợp không đúng thẩm quyền hoặc cơ quan, tổ chức phải thi hành không có
trụ sở chính tại Việt Nam, cá nhân phải thi hành không cư trú, làm việc tại
Việt Nam hoặc không xác định được địa điểm nơi có tài sản liên quan đến việc
thi hành tại Việt Nam;
đ) Mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Trong trường hợp Toà án yêu cầu giải thích theo quy định tại khoản 2
Điều 367 của Bộ luật này thì thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu được kéo dài
thêm hai tháng.
2. Toà án phải mở phiên họp xét đơn trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ
ngày ra quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu. Toà án chuyển hồ sơ cho Viện
kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời hạn mười ngày, trước ngày mở phiên họp;
hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải gửi trả lại hồ sơ cho Toà án để mở phiên
họp xét đơn yêu cầu.
1. Việc xét đơn yêu cầu được tiến hành tại phiên họp do một Hội đồng
xét đơn yêu cầu gồm ba Thẩm phán, trong đó một Thẩm phán làm chủ toạ theo sự
phân công của Chánh án Toà án.
2. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường
hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên họp.
3. Phiên họp được tiến hành với sự có mặt của người phải thi hành hoặc
người đại diện hợp pháp của họ, nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng
thì phải hoãn phiên họp.
Việc xét đơn yêu cầu vẫn được tiến hành, nếu người phải thi hành hoặc
người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu Toà án xét đơn vắng mặt họ hoặc đã được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
4. Hội đồng không xét xử lại vụ tranh chấp đã được Trọng tài nước ngoài
giải quyết mà chỉ kiểm tra, đối chiếu quyết định của Trọng tài nước ngoài, các
giấy tờ, tài liệu kèm theo với các quy định của Bộ luật này, các quy định khác
của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có
liên quan để ra quyết định.
5. Sau khi xem xét đơn yêu cầu, các giấy tờ, tài liệu kèm theo, nghe ý
kiến của người được triệu tập, của Kiểm sát viên, Hội đồng thảo luận và quyết
định theo đa số.
Hội đồng có quyền ra quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
quyết định của Trọng tài nước ngoài hoặc quyết định không công nhận quyết định
của Trọng tài nước ngoài.
1. Quyết định của Trọng tài nước ngoài không được công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam trong các trường hợp sau đây:
a) Các bên ký kết thoả thuận trọng tài không có năng lực để ký kết thoả
thuận đó theo pháp luật được áp dụng cho mỗi bên;
b) Thoả thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo pháp luật của
nước mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo pháp luật của nước nơi quyết định
đã được tuyên, nếu các bên không chọn pháp luật áp dụng cho thoả thuận đó;
c) Cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành không được thông báo kịp
thời và hợp thức về việc chỉ định Trọng tài viên, về thủ tục giải quyết vụ
tranh chấp tại Trọng tài nước ngoài hoặc vì nguyên nhân chính đáng khác mà
không thể thực hiện được quyền tố tụng của mình;
d) Quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên về một vụ tranh chấp
không được các bên yêu cầu giải quyết hoặc vượt quá yêu cầu của các bên ký kết
thoả thuận trọng tài. Trong trường hợp có thể tách được phần quyết định về vấn
đề đã được yêu cầu và phần quyết định về vấn đề không được yêu cầu giải quyết
tại Trọng tài nước ngoài thì phần quyết định về vấn đề được yêu cầu giải quyết
có thể được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
đ) Thành phần của Trọng tài nước ngoài, thủ tục giải quyết tranh chấp
của Trọng tài nước ngoài không phù hợp với thoả thuận trọng tài hoặc với pháp
luật của nước nơi quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên, nếu thoả
thuận trọng tài không quy định về các vấn đề đó;
e) Quyết định của Trọng tài nước ngoài chưa có hiệu lực bắt buộc đối
với các bên;
g) Quyết định của Trọng tài nước ngoài bị cơ quan có thẩm quyền của
nước nơi quyết định đã được tuyên hoặc của nước có pháp luật đã được áp dụng
huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành.
2. Quyết định của Trọng tài nước ngoài cũng không được công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam, nếu Toà án Việt Nam xét thấy:
a) Theo pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo
thể thức trọng tài;
b) Việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài
nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Ngay sau khi ra quyết định quy định tại Điều 368 và Điều 369 của Bộ
luật này, Toà án gửi cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp quyết định đó;
nếu đương sự ở nước ngoài thì quyết định được gửi thông qua Bộ Tư pháp.
1. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày Toà án ra quyết định quy
định tại Điều 368 và Điều 369 của Bộ luật này, đương sự, người đại diện hợp
pháp của họ có quyền kháng cáo quyết định đó; trường hợp đương sự không có mặt
tại phiên họp xét đơn yêu cầu thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được
quyết định đó. Đơn kháng cáo phải nêu rõ lý do và yêu cầu kháng cáo.
Trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm
cho đương sự, người đại diện hợp pháp của họ không thể kháng cáo trong thời hạn
nêu trên thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó
không tính vào thời hạn kháng cáo.
2. Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền
kháng nghị quyết định của Toà án quy định tại Điều 368 và Điều 369 của Bộ luật
này.
Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao là ba mươi ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết
định.
1. Toà án nhân dân tối cao xét quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh
bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ;
trường hợp cần phải yêu cầu giải thích theo quy định tại khoản 2 Điều 367 của
Bộ luật này thì thời hạn này được kéo dài, nhưng không quá hai tháng.
2. Thành phần Hội đồng xét quyết định bị kháng cáo, kháng nghị gồm ba
Thẩm phán, trong đó có một Thẩm phán làm chủ toạ theo sự phân công của Chánh
toà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao. Phiên họp xét lại quyết định bị
kháng cáo, kháng nghị được tiến hành như phiên họp xét đơn yêu cầu quy định tại
Điều 369 của Bộ luật này.
3. Hội đồng có quyền giữ nguyên, sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định
của Toà án nhân dân cấp tỉnh, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc xét kháng cáo,
kháng nghị trong trường hợp đương sự rút kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng
nghị hoặc có căn cứ quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 368 của Bộ
luật này.
Quyết định của Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng và có
hiệu lực thi hành.
1. Trong trường hợp nhận được thông báo bằng văn bản của Bộ Tư pháp về
việc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đang xem xét việc huỷ bỏ hoặc đình
chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài đã có quyết định thi hành tại
Việt Nam thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ
thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài và gửi quyết định đó cho Toà án đã
ra quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài
nước ngoài.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thể áp dụng biện pháp bảo đảm
cần thiết cho việc tiếp tục thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài, nếu
có yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được thi hành.
2. Ngay sau khi nhận được thông báo bằng văn bản của Bộ Tư pháp về việc
cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành quyết
định của Trọng tài nước ngoài, Toà án Việt Nam đã ra quyết định công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài ra quyết định huỷ
bỏ quyết định đó và gửi quyết định này cho cơ quan thi hành án.
Ngay sau khi nhận được quyết định của Toà án, Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự ra quyết định đình chỉ việc thi hành quyết định của Trọng tài
nước ngoài.
THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH
DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN
Chương XXX
QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THI HÀNH
BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Điều 375. Những bản
án, quyết định của Toà án được thi hành
1. Những bản án, quyết định dân sự của Toà án được thi hành là những
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ
thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;
d) Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của
Trọng tài nước ngoài đã có quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án Việt Nam
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
2. Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi
hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao
động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc
bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất tinh thần của công dân;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Bản án, quyết định của Toà án được đưa ra thi hành khi có các căn cứ
sau đây:
1. Bản án, quyết định được thi hành quy định tại Điều 375 của Bộ luật
này;
2. Quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
1. Trường hợp các bên đương sự không tự nguyện thi hành thì người được
thi hành án, người phải thi hành án căn cứ vào bản án, quyết định của Toà án có
quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
2. Người yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Toà án phải có đơn yêu
cầu thi hành án hoặc trực tiếp đến cơ quan thi hành án nêu rõ nội dung yêu cầu
và các thông tin liên quan đến việc thi hành án kèm theo bản án hoặc quyết định
có yêu cầu được thi hành.
Điều 378. Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc thi hành bản án,
quyết định của Toà án
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có trách nhiệm thực hiện đầy đủ yêu cầu của Chấp hành viên trong việc thi hành
bản án, quyết định của Toà án.
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan
trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án ở địa phương mình theo quy
định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Tư lệnh quân khu và tương đương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc thi hành
án trong quân khu và tương đương.
3. Cơ quan công an có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, kịp thời ngăn chặn
những hành vi cản trở, chống đối việc thi hành bản án, quyết định của Toà án.
Trong trường hợp cần phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án thì cơ quan
công an và các cơ quan hữu quan có nhiệm vụ phối hợp thực hiện theo yêu cầu của
Thủ trưởng cơ quan thi hành án hoặc Chấp hành viên.
Viện kiểm sát nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan thi hành án, Chấp hành viên
và cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định
của Toà án nhằm bảo đảm việc thi hành bản án, quyết định của Toà án kịp thời,
đầy đủ, đúng pháp luật.
THỦ TỤC THI HÀNH BẢN ÁN,
QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Điều 380. Cấp bản
án, quyết định của Toà án
Khi bản án, quyết định của Toà án thuộc trường hợp được thi hành theo
quy định tại Điều 375 của Bộ luật này thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định đó
phải cấp cho người được thi hành án và người phải thi hành án bản án hoặc quyết
định đó có ghi để thi hành".
Toà án phải giải thích cho người được thi hành, người phải thi hành bản
án, quyết định về quyền yêu cầu, thời hạn yêu cầu thi hành án và nghĩa vụ thi
hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
1. Đối với những bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại
điểm a khoản 2 Điều 375 của Bộ luật này thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định
đó phải chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án cùng cấp với Toà
án đã xét xử sơ thẩm trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định
đó.
Đối với các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Toà án
đã ra quyết định phải chuyển giao ngay quyết định cho cơ quan thi hành án cùng
cấp.
2. Đối với bản án, quyết định không thuộc trường hợp quy định tại khoản
1 Điều này thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định đó phải chuyển giao bản án,
quyết định cho cơ quan thi hành án cùng cấp với Toà án đã xét xử sơ thẩm trong
thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Khi chuyển giao bản án, quyết định, Toà án phải gửi kèm theo biên
bản kê biên, tạm giữ tang vật, tài sản, các tài liệu khác có liên quan, nếu có.
1. Người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Toà án và cơ quan
thi hành án có quyền yêu cầu bằng văn bản Toà án đã ra bản án, quyết định giải
thích những điểm chưa rõ trong bản án, quyết định để thi hành.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, Toà
án phải có văn bản giải thích và gửi cho người có yêu cầu, Viện kiểm sát cùng
cấp, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành bản án, quyết
định của Toà án.
2. Thẩm phán ra quyết định hoặc Thẩm phán là chủ toạ phiên toà có trách
nhiệm giải thích bản án, quyết định của Toà án. Trong trường hợp họ không còn
là Thẩm phán của Toà án thì Chánh án Toà án đó có trách nhiệm giải thích bản
án, quyết định của Toà án.
3. Việc giải thích bản án, quyết định của Toà án phải căn cứ vào biên
bản phiên toà và biên bản nghị án.
1. Trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có
hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu
cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành bản án, quyết định
đó.
Trong trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án,
quyết định của Toà án thì thời hạn ba năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn;
đối với bản án, quyết định của Toà án thi hành theo định kỳ thì thời hạn ba năm
được áp dụng cho từng định kỳ, tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
2. Trong trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở
ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án
đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng
đó không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án; đối với các trường hợp hoãn,
tạm đình chỉ thi hành án theo quy định tại Điều 286 và Điều 307 của Bộ luật này
thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ
trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn, tạm
đình chỉ thi hành án.
XỬ LÝ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ
HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG DÂN SỰ; KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Chương XXXII
XỬ LÝ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ
HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Điều 384. Biện pháp
xử lý đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập
đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn không có mặt tại Toà án
hoặc không có mặt tại phiên toà không có lý do chính đáng thì tuỳ từng trường
hợp có thể bị Toà án phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền.
Điều 385. Biện pháp xử lý người có hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập
chứng cứ của người tiến hành tố tụng
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây thì tuỳ theo mức độ vi
phạm mà có thể bị Toà án quyết định phạt cảnh cáo, phạt tiền, tạm giữ hành
chính hoặc khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật:
a) Làm giả, huỷ hoại những chứng cứ quan trọng gây trở ngại cho việc
giải quyết vụ án của Toà án;
b) Khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật;
c) Từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định hoặc từ chối cung cấp
tài liệu;
d) Lừa dối, đe doạ, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người làm
chứng ra làm chứng hoặc buộc người khác ra làm chứng gian dối;
đ) Lừa dối, đe doạ, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người giám
định thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người giám định kết luận sai với sự thật
khách quan;
e) Lừa dối, đe doạ, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người phiên
dịch thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người phiên dịch dịch không trung thực, không
khách quan, không đúng nghĩa khi dịch;
g) Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tiến hành tố tụng; đe
doạ, sử dụng vũ lực hoặc có hành vi khác cản trở người tiến hành tố tụng thực
hiện các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ do Bộ luật này quy định;
h) Các hành vi vi phạm khác mà pháp luật có quy định.
2. Cơ quan công an có nhiệm vụ thi hành quyết định của Toà án tạm giữ
hành chính người có hành vi vi phạm.
1. Người làm chứng đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng cố ý không đến
Toà án hoặc không có mặt tại phiên toà mà không có lý do chính đáng và nếu sự
vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc thu thập, xác minh chứng cứ hoặc xét xử
vụ án thì Toà án có quyền ra quyết định dẫn giải, cảnh cáo, phạt tiền.
2. Quyết định dẫn giải người làm chứng phải ghi rõ thời gian, địa điểm
ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm
sinh, nơi cư trú của người làm chứng; thời gian, địa điểm người làm chứng phải
có mặt.
3. Cơ quan công an có nhiệm vụ thi hành quyết định của Toà án dẫn giải
người làm chứng. Người thi hành quyết định dẫn giải người làm chứng phải đọc,
giải thích quyết định dẫn giải cho người bị dẫn giải biết và lập biên bản về
việc dẫn giải.
1. Người có hành vi vi phạm nội quy phiên toà thì tuỳ theo mức độ vi
phạm mà có thể bị chủ toạ phiên toà quyết định phạt cảnh cáo, phạt tiền, buộc
rời khỏi phòng xử án hoặc tạm giữ hành chính.
2. Cơ quan công an có nhiệm vụ bảo vệ phiên toà thi hành quyết định của
chủ toạ phiên toà về việc buộc rời khỏi phòng xử án hoặc tạm giữ hành chính
người gây rối trật tự tại phiên toà.
3. Trong trường hợp người vi phạm nội quy phiên toà đến mức phải bị
truy cứu trách nhiệm hình sự thì Toà án có quyền khởi tố vụ án hình sự theo quy
định của pháp luật về hình sự.
1. Trong trường hợp Toà án khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại
khoản 1 Điều 385 và khoản 3 Điều 387 của Bộ luật này thì trong thời hạn mười
ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố, Toà án phải chuyển cho Viện kiểm sát có
thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án và tài liệu, chứng cứ để chứng minh hành vi
phạm tội.
2. Viện kiểm sát phải xem xét việc khởi tố, truy tố bị can trong thời
hạn do Bộ luật tố tụng hình sự quy định; nếu Viện kiểm sát không khởi tố, truy
tố bị can thì Viện kiểm sát phải thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do của việc
không khởi tố, truy tố bị can cho Toà án đã ra quyết định khởi tố vụ án biết.
Điều 389. Biện pháp xử lý cá nhân, cơ quan, tổ chức không thi hành quyết định
của Toà án về việc cung cấp chứng cứ cho Toà án
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức không thi hành quyết định của Toà án về
việc cung cấp chứng cứ mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang quản lý, lưu giữ
thì có thể bị Toà án quyết định phạt cảnh cáo, phạt tiền hoặc cưỡng chế thi
hành.
2. Cá nhân, người đứng đầu cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 1 Điều
này tuỳ theo mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt đối với các hành vi cản trở
hoạt động tố tụng dân sự do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
Điều 391. Quyết
định, hành vi trong tố tụng dân sự có thể bị khiếu nại
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định, hành vi
trong tố tụng dân sự của cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự khi có căn cứ
cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
2. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm của Toà án và các quyết định tố tụng khác do người tiến hành tố tụng dân
sự ban hành, nếu có kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại, kiến nghị thì không giải
quyết theo quy định của Chương này mà được giải quyết theo quy định của các
chương tương ứng của Bộ luật này.
1. Người khiếu nại có các quyền sau đây:
a) Tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khiếu nại;
b) Khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án;
c) Rút khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết
khiếu nại;
d) Được nhận văn bản trả lời về việc thụ lý để giải quyết khiếu nại;
nhận quyết định giải quyết khiếu nại;
đ) Được khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
2. Người khiếu nại có các nghĩa vụ sau đây:
a) Khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền giải quyết;
b) Trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu cho người
giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và
việc cung cấp thông tin, tài liệu đó;
c) Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu
lực pháp luật.
1. Người bị khiếu nại có các quyền sau đây:
a) Đưa ra bằng chứng về tính hợp pháp của quyết định, hành vi trong tố
tụng bị khiếu nại;
b) Được nhận quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi
trong tố tụng của mình.
2. Người bị khiếu nại có các nghĩa vụ sau đây:
a) Giải trình về quyết định, hành vi trong tố tụng dân sự bị khiếu nại;
cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền yêu cầu;
b) Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu
lực pháp luật;
c) Bồi thường thiệt hại, hoàn trả hoặc khắc phục hậu quả do quyết định,
hành vi trong tố tụng dân sự trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của
pháp luật.
Thời hiệu khiếu nại là mười lăm ngày, kể từ ngày người khiếu nại nhận
được hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng mà người đó cho rằng có vi phạm
pháp luật.
Trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà
người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn quy
định tại Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách
quan đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
Điều 395. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với Kiểm sát viên, Phó
Viện trưởng và Viện trưởng Viện kiểm sát
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Kiểm sát viên, Phó Viện
trưởng do Viện trưởng Viện kiểm sát giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể
từ ngày nhận được khiếu nại; nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người
khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời
hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền
giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Viện trưởng Viện kiểm sát do
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày nhận được khiếu nại. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải
quyết cuối cùng.
Điều 396. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với Thư ký Toà án, Hội
thẩm nhân dân, Thẩm phán, Phó Chánh án và Chánh án Toà án
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Thư ký Toà án, Hội thẩm nhân
dân, Thẩm phán, Phó Chánh án do Chánh án Toà án giải quyết trong thời hạn mười
lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; nếu không đồng ý với kết quả giải
quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Toà án cấp trên trực tiếp.
Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Toà án cấp trên
trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Toà án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền
giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án Toà án do Toà án cấp
trên trực tiếp giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được
khiếu nại. Toà án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Toà án phải được gửi cho
người khiếu nại và Viện kiểm sát cùng cấp.
Khiếu nại về hành vi trong tố tụng dân sự của người giám định do người
đứng đầu tổ chức giám định trực tiếp quản lý người giám định giải quyết trong
thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; nếu không đồng ý với
kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại với người đứng đầu cơ
quan quản lý cấp trên trực tiếp của tổ chức giám định. Trong thời hạn mười lăm
ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, người đứng đầu cơ quan quản lý cấp trên
trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Quyết định của người đứng đầu cơ quan quản
lý cấp trên trực tiếp là quyết định cuối cùng.
Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về
hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây thiệt
hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
1. Người tố cáo có các quyền sau đây:
a) Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền;
b) Yêu cầu giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của mình;
c) Yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo;
d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe
doạ, trù dập, trả thù.
2. Người tố cáo có nghĩa vụ sau đây:
a) Trình bày trung thực về nội dung tố cáo;
b) Nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình;
c) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.
1. Người bị tố cáo các có quyền sau đây:
a) Được thông báo về nội dung tố cáo;
b) Đưa ra bằng chứng để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật;
c) Được khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; được phục hồi
danh dự, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra;
d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tố cáo
sai sự thật.
2. Người bị tố cáo có các nghĩa vụ sau đây:
a) Giải trình về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên
quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu;
b) Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền;
c) Bồi thường thiệt hại, hoàn trả hoặc khắc phục hậu quả do hành vi tố
tụng dân sự trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của pháp luật.
1. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng thuộc cơ quan có thẩm quyền nào thì người đứng đầu cơ quan đó có trách
nhiệm giải quyết.
Trong trường hợp người bị tố cáo là Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát thì Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp,
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có trách nhiệm giải quyết.
Thời hạn giải quyết tố cáo là không quá sáu mươi ngày, kể từ ngày thụ
lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn,
nhưng không quá chín mươi ngày.
2. Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm được giải
quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo quy định của
Chương này và các quy định khác của pháp luật về khiếu nại, tố cáo không trái
với quy định của Chương này.
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp
luật; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn
chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm cho quyết định giải quyết được thi hành
nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
2. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo mà không giải
quyết, thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết, giải quyết trái pháp luật thì
tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp
luật.
Điều 404. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng dân sự
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật.
Viện kiểm sát có quyền yêu cầu, kiến nghị đối với Toà án cùng cấp và cấp dưới,
cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm để bảo đảm việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật.
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ
VIỆC DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI VÀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Chương XXXIV
QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỦ TỤC
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC
DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Điều 405. Nguyên tắc
áp dụng
1. Toà án áp dụng các quy định tại Chương XXXIV và Chương XXXV của Bộ
luật này để giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Trường hợp
trong các chương này không có quy định thì được áp dụng các quy định khác có
liên quan của Bộ luật này để giải quyết.
2. Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là vụ việc dân sự có ít nhất một
trong các đương sự là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
hoặc các quan hệ dân sự giữa các đương sự là công dân, cơ quan, tổ chức Việt
Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước
ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước
ngoài.
1. Công dân nước ngoài, người không quốc tịch, cơ quan, tổ chức nước
ngoài, tổ chức quốc tế (sau đây gọi chung là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước
ngoài) có quyền khởi kiện đến Toà án Việt Nam để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm hoặc có tranh chấp.
2. Khi tham gia tố tụng dân sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài có
quyền, nghĩa vụ tố tụng như công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam.
3. Nhà nước Việt Nam có thể áp dụng nguyên tắc có đi có lại để hạn chế
quyền tố tụng dân sự tương ứng của công dân nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước
ngoài mà Toà án của nước đó đã hạn chế quyền tố tụng đối với công dân, cơ quan,
tổ chức Việt Nam.
Điều 407. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự
của công dân nước ngoài, người không quốc tịch
1. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự
của công dân nước ngoài, người không quốc tịch được xác định như sau:
a) Theo pháp luật của nước mà công dân đó có quốc tịch; trong trường
hợp công dân có quốc tịch Việt Nam và quốc tịch nước ngoài thì theo pháp luật
Việt Nam; trong trường hợp công dân có nhiều quốc tịch của nhiều nước ngoài
khác nhau thì theo pháp luật của nước nơi công dân đó sinh sống, trừ trường hợp
pháp luật Việt Nam có quy định khác;
b) Theo pháp luật Việt Nam, nếu công dân nước ngoài cư trú, làm ăn,
sinh sống lâu dài tại Việt Nam;
c) Theo pháp luật của nước nơi người không quốc tịch cư trú, làm ăn,
sinh sống lâu dài;
d) Theo pháp luật Việt Nam, nếu hành vi tố tụng dân sự được thực hiện
trên lãnh thổ Việt Nam.
2. Công dân nước ngoài, người không quốc tịch có thể được công nhận có
năng lực hành vi tố tụng dân sự trên lãnh thổ Việt Nam, nếu theo quy định của
pháp luật nước ngoài thì họ không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, nhưng
theo quy định của pháp luật Việt Nam thì họ có năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Điều 408. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ
chức quốc tế trong tố tụng dân sự
1. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cơ quan, tổ chức nước ngoài
được xác định theo pháp luật của nước nơi cơ quan, tổ chức đó được thành lập,
trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác.
2. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của tổ chức quốc tế được xác định
trên cơ sở điều ước quốc tế là căn cứ để thành lập tổ chức đó, quy chế hoạt
động của tổ chức quốc tế hoặc điều ước quốc tế đã được ký kết với cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam.
Đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài tham gia tố tụng tại
Toà án Việt Nam có quyền nhờ luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN VIỆT
NAM GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Điều 410. Quy định
chung về thẩm quyền của Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài
1. Thẩm quyền của Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu
tố nước ngoài được xác định theo quy định tại Chương III của Bộ luật này, trừ
trường hợp Chương này có quy định khác.
2. Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài
trong các trường hợp sau đây:
a) Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam
hoặc bị đơn có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam;
b) Bị đơn là công dân nước ngoài, người không quốc tịch cư trú, làm ăn,
sinh sống lâu dài tại Việt Nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam;
c) Nguyên đơn là công dân nước ngoài, người không quốc tịch cư trú, làm
ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam đối với vụ việc dân sự về yêu cầu đòi tiền
cấp dưỡng, xác định cha mẹ;
d) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam,
nhưng có ít nhất một trong các đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước
ngoài;
đ) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài, nhưng
các đương sự đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị
đơn cư trú tại Việt Nam;
e) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện toàn bộ hoặc một
phần hợp đồng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam;
g) Vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam.
1. Những vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền
giải quyết riêng biệt của Toà án Việt Nam:
a) Vụ án dân sự có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản
có trên lãnh thổ Việt Nam;
b) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển mà người vận chuyển có
trụ sở chính hoặc chi nhánh tại Việt Nam;
c) Vụ án ly hôn giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài hoặc
người không quốc tịch, nếu cả hai vợ chồng cư trú, làm ăn, sinh sống ở Việt
Nam.
2. Những việc dân sự có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải
quyết riêng biệt của Toà án Việt Nam:
a) Xác định một sự kiện pháp lý, nếu sự kiện đó xảy ra trên lãnh thổ
Việt Nam;
b) Tuyên bố công dân nước ngoài, người không quốc tịch bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự nếu họ cư trú, làm ăn, sinh
sống ở Việt Nam và việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa
vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam;
c) Tuyên bố công dân nước ngoài, người không quốc tịch mất tích, đã
chết nếu họ có mặt ở Việt Nam tại thời điểm có sự kiện xảy ra mà sự kiện đó là
căn cứ để tuyên bố một người mất tích, đã chết và việc tuyên bố đó có liên quan
đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam;
d) yêu cầu Toà án Việt Nam tuyên bố công dân Việt Nam mất tích, đã chết
nếu việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên
lãnh thổ Việt Nam;
đ) Công nhận tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam là vô chủ hoặc công nhận
quyền sở hữu của người đang quản lý đối với bất động sản vô chủ trên lãnh thổ
Việt Nam.
Vụ việc dân sự đã được một Toà án Việt Nam thụ lý giải quyết theo quy
định về thẩm quyền do Bộ luật này quy định thì phải được Toà án đó tiếp tục
giải quyết mặc dù trong quá trình giải quyết có sự thay đổi quốc tịch, nơi cư
trú, địa chỉ của các đương sự hoặc có tình tiết mới làm cho vụ việc dân sự đó
thuộc thẩm quyền của Toà án khác của Việt Nam hoặc của Toà án nước ngoài.
Điều 413. Trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc
dân sự trong trường hợp đã có Toà án nước ngoài giải quyết
1. Toà án Việt Nam trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ
giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp đã có bản án,
quyết định của Toà án nước ngoài giải quyết vụ việc dân sự đó và nước có Toà án
ra bản án, quyết định dân sự đó và Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập điều ước
quốc tế quy định việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự.
2. Toà án Việt Nam trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ
giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu có Toà án nước ngoài đã thụ
lý vụ việc dân sự đó và bản án, quyết định của Toà án nước ngoài về vụ việc dân
sự đó được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
Điều 414. Nguyên tắc
tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự
1. Việc tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự giữa Toà án Việt Nam và
Toà án nước ngoài được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng và cùng có lợi, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, phù hợp với pháp luật Việt Nam.
2. Trong trường hợp Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước ngoài
chưa ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế có quy định về tương trợ tư pháp
trong tố tụng dân sự thì việc tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự có thể
được Toà án Việt Nam chấp nhận trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không được
trái pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế.
1. Toà án Việt Nam uỷ thác tư pháp cho Toà án nước ngoài hoặc thực hiện
uỷ thác tư pháp của Toà án nước ngoài về việc tiến hành một số hoạt động tố
tụng dân sự theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập
hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
2. Toà án Việt Nam không chấp nhận thực hiện việc uỷ thác tư pháp của
Toà án nước ngoài trong các trường hợp sau đây:
a) Việc thực hiện uỷ thác tư pháp xâm phạm đến chủ quyền của Việt Nam
hoặc đe doạ đến an ninh của Việt Nam;
b) Việc thực hiện uỷ thác tư pháp không thuộc thẩm quyền của Toà án
Việt Nam.
1. Việc Toà án Việt Nam uỷ thác tư pháp cho Toà án nước ngoài hoặc Toà
án nước ngoài uỷ thác tư pháp cho Toà án Việt Nam phải được lập thành văn bản
và gửi đến cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của điều ước quốc
tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập hoặc theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam nhận được văn bản uỷ thác tư pháp
phải chuyển ngay cho Toà án Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài
nhận văn bản uỷ thác của Toà án Việt Nam.
1. Văn bản uỷ thác tư pháp phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm lập văn bản uỷ thác tư pháp;
b) Tên, địa chỉ của Toà án uỷ thác tư pháp;
c) Tên, địa chỉ của Toà án thực hiện uỷ thác tư pháp;
d) Họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức có
liên quan đến uỷ thác tư pháp;
đ) Nội dung công việc uỷ thác;
e) Yêu cầu của Toà án uỷ thác.
2. Gửi kèm theo văn bản uỷ thác là giấy tờ, tài liệu cần thiết cho việc
thực hiện uỷ thác, nếu có.
1. Giấy tờ, tài liệu do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài lập, cấp hoặc
xác nhận theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc ở ngoài lãnh thổ Việt Nam
được Toà án Việt Nam công nhận nếu giấy tờ, tài liệu đó đã được hợp pháp hoá
lãnh sự, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có
quy định khác.
2. Giấy tờ, tài liệu lập bằng tiếng nước ngoài phải được gửi cho Toà án
Việt Nam kèm theo bản dịch ra tiếng Việt đã được công chứng, chứng thực hợp
pháp.
Bộ luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004.
QUỐC HỘI
CHỦ TỊCH
Nguyễn Văn An
|