Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 do Ban Chấp hành Trung ương ban hành.
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
-------- |
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------- |
Số: 49-NQ/TW
|
Hà Nội, ngày 02 tháng 06 năm 2005
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ CHIẾN LƯỢC CẢI CÁCH TƯ PHÁP ĐẾN NĂM
2020
Trong
những năm qua, thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết 08-NQ/TW,
ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”, công cuộc cải cách tư pháp đã được các cấp ủy, tổ chức
đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả.
Nhận thức và sự quan tâm đối với công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng
tích cực; chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy
nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những
vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình
sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất
cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế
hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ
trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận
cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách
nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ,
truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn
thiếu thốn, lạc hậu.
Cùng với
những mặt hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang đứng trước nhiều
thách thức. Tình hình phạm tội diễn biến phức tạp, với tính chất và hậu quả
ngày càng nghiêm trọng. Các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự, kinh
tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh chấp có yếu tố nước ngoài có chiều
hướng tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng hơn. Đòi hỏi của công dân và xã hội
đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là
chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải
là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có
hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm.
Nhiệm vụ
phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa đòi hỏi phải ban hành và thực hiện Chiến lược Cải cách tư pháp
đến năm 2020 phù hợp với quá trình đổi mới công tác lập pháp và chương trình
cải cách hành chính.
I.
MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CẢI CÁCH TƯ PHÁP
1.
Mục tiêu
Xây dựng
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả
và hiệu lực cao.
2.
Quan điểm
2.1. Cải
cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự ổn định
chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
2.2. Cải
cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải cách hành
chính.
2.3.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách tư pháp.
Các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của các
cơ quan dân cử và nhân dân.
2.4. Cải
cách tư pháp phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt
được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam: tiếp thu có chọn lọc những kinh
nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội
nhập quốc tế; đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai.
2.5. Cải
cách tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm
với những bước đi vững chắc.
II.
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ CẢI CÁCH TƯ PHÁP
1.
Phương hướng
1.1.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục
tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người.
1.2. Tổ
chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và
hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác
định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa
mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp.
1.3. Xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư
pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa
tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh
nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ
thi tuyển đối với một số chức danh.
1.4. Đổi
mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của các cơ
quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
2.
Các nhiệm vụ cải cách tư pháp
2.1.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng
tư pháp
Sớm hoàn
thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện
chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và
tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp
dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội
phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hương chỉ áp dụng đối với một số
ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao
trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế,
quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi
nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội,
khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế.
Quy định
trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm
quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm
tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng
phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác.
Xây dựng
cơ chế phát huy sức mạnh của nhân dân, cơ quan, các tổ chức quần chúng trong
phát hiện, phòng ngừa tham nhũng; bảo vệ người trung thực phát hiện, tố cáo,
người điều tra truy tố, xét xử hành vi tham nhũng; khen thưởng người có công
trong đấu tranh phòng chống tham nhũng. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan, tổ chức trong việc ngăn ngừa, kiểm soát các hành vi tham nhũng.
Hoàn
thiện pháp luật dân sự, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh; hoàn
thiện chế định hợp đồng, bồi thường, bồi hoàn…
Phân
định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm quyền hạn tư pháp trong
hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho điều tra
viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiêm vụ, nâng
cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết
định tố tụng của mình. Xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện
pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm
quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp tạm giam.
Từng
bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ
những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối
với bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật; khắc phục tình
trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ. Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục
rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định.
Tiếp tục
hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại
hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu
thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới
thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến tòa án, tòa án có trách
nhiệm nhận và thụ lý đơn. Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông
qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận
việc giải quyết đó.
Mở rộng
thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ
thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại tòa án; tạo điều kiện thuận
lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ
quan công quyền trước tòa án.
Từng
bước thực hiện việc công khai hóa các bản án, trừ những bản án hình sự về tội
xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến thuần phong mỹ tục. Xây dựng cơ
chế bảo đảm mọi bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các
cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của tòa án phải nghiêm
chỉnh chấp hành.
2.2.
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các
cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
tòa án nhân dân.
Tổ chức
hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính,
gồm: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính
cấp huyện; tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử
sơ thẩm một số vụ án; tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét
xử phúc thẩm. Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử,
hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm. Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử
của từng cấp tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp
luật, có kinh nghiệm trong ngành.
Nghiên
cứu, xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự theo hướng
chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự…
Đổi mới
việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm
của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính
công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên
tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
Trước
mắt, viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện Kiểm sát nhân dân được tổ
chức phù hợp với hệ thống tổ chức của tòa án. Nghiên cứu việc chuyển viện kiểm
sát thành viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều
tra.
Xác định
rõ nhiệm vụ của cơ quan điều tra trong mối quan hệ với các cơ quan khác được
giao một số hoạt động điều tra theo hướng cơ quan điều tra chuyên trách điều
tra tất cả các vụ án hình sự, các cơ quan khác chỉ tiến hành một số hoạt động
điều tra sơ bộ và tiến hành một số biện pháp điều tra theo yêu cầu của cơ quan
điều tra chuyên trách. Trước mắt, tiếp tục thực hiện mô hình tổ chức cơ quan
điều tra theo pháp luật hiện hành; nghiên cứu và chuẩn bị mọi điều kiện để tiến
tới tổ chức lại các cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt
chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng hình sự.
Chuẩn bị
điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống
nhất quản lý công tác thi hành án. Xác định rõ trách nhiệm của ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn và của cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trong việc thi hành các hình phạt không phải là hình phạt tù để thực hiện
nghiêm túc các bản án của tòa án. Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy
định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà
nước thực hiện một số công việc thi hành án.
2.3.
Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp:
Đào tạo,
phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có
trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc
tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật
sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức
luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên của mình.
Hoàn
thiện chế định giám định tư pháp. Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám
định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Thực hiện xã hội
hóa đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên.
Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực
hiện giám định. Ban hành quy chuẩn giám định phù hợp với từng lĩnh vực. Xác
định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm
căn cứ giải quyết vụ việc.
Xây dựng
lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư pháp chính quy, đáp ứng kịp thời cho hoạt động xét
xử, thi hành án…
Hoàn
thiện chế định công chứng. Xác định rõ phạm vi của công chứng và chứng thực,
giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về
công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có
bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này.
Nghiên
cứu chế định thừa phát lại (thừa hành viên); trước mắt, có thể tổ chức thí điểm
tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ
có bước đi tiếp theo.
2.4.
Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh.
Tiếp tục
đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của
các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp
theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội,
có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong
sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xây dựng
Trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các
trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật. Xây dựng Học viện Tư pháp thành
trung tâm lớn về đào tạo cán bộ tư pháp.
Có cơ
chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở
các cơ quan tư pháp. Mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp, không
chỉ là cán bộ trong các cơ quan tư pháp, mà còn là các ... luật sư. Nghiên cứu
thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp.
Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không
có kỳ hạn.
Có chế
độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp.
Tăng cường kiểm tra, thanh tra và có cơ chế thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài
đối với hoạt động của các chức danh tư pháp.
2.5.
Hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân đối với cơ quan tư pháp.
Đổi mới,
nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn đối với hoạt động của các cơ
quan tư pháp tại các kỳ họp Quốc hội, hội đồng nhân dân. Quốc hội và hội đồng
nhân dân nên có nghị quyết riêng về hoạt động tư pháp sau khi nghe báo cáo và
trả lời chất vấn.
Tăng
cường và nâng cao hiệu lực giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tư
pháp, đặc biệt là của lãnh đạo các cơ quan tư pháp. Nghiên cứu việc thành lập
Ủy ban Tư pháp của Quốc hội để giúp Quốc hội thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt
động tư pháp, trọng tâm là việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử.
Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; không ngừng nâng cao trình độ dân trí
pháp lý, ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật cho mọi người dân.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tập trung làm tốt công tác động viên
nhân dân phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong hoạt động tư pháp, qua đó
kiến nghị với các cơ quan tư pháp khắc phục, sửa chữa. Tăng cường vai trò của
các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin
về hoạt động tư pháp.
2.6.
Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp
Tổ chức
thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia. Tiếp tục ký kết
hiệp định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước hết là với các nước láng
giềng, các nước trong khu vực và các nước có quan hệ truyền thống.
Tăng
cường sự phối hợp chung trong hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm
có yếu tố quốc tế và khủng bố quốc tế với các tổ chức INTERPOL, ASEANPOL,… với
cảnh sát các nước láng giềng và khu vực, với cảnh sát một số quốc gia có nhiều
công dân Việt Nam sinh sống, lao động, học tập.
Đào tạo
đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về
lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ
chức, công dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực.
2.7.
Bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp
Nhà nước
bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng
cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước.
Đổi mới
và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ quan và hoạt động tư pháp
theo hướng ngân sách tư pháp do Quốc hội phân bổ và giao các cơ quan tư pháp
địa phương quản lý và sử dụng, có sự giám sát, kiểm tra của các cơ quan tư pháp
trung ương; có cơ chế cho phép địa phương hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ quan
tư pháp từ khoản vượt thu ngân sách của địa phương.
Từng
bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang, hiện đại,
đầy đủ tiện nghi. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều tra, đấu
tranh phòng, chống tội phạm, công tác xét xử, công tác giám định tư pháp. Khẩn
trương trong một vài năm xây xong trụ sở làm việc các cơ quan tư pháp cấp
huyện; nâng cấp các nhà tạm giam theo đề án đã được Chính phủ phê duyệt. Tăng
cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan tư pháp.
2.8.
Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp
Đảng
lãnh đạo chặt chẽ hoạt động tư pháp và các cơ quan tư pháp và chính trị, tổ
chức và cán bộ; khắc phục tình trạng cấp ủy đang buông lỏng lãnh đạo hoặc can
thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp.
Tăng
cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ
chức đảng, đảng viên; chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí,
sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan tư pháp. Phân công đồng chí cấp ủy viên
có trình độ, năng lực, uy tín và bản lĩnh bổ nhiệm làm viện trưởng viện kiểm
sát và chánh án tòa án các cấp.
Xây dựng
và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy đảng trong việc chỉ đạo giải quyết
những vụ việc quan trọng, phức tạp; cơ chế phối hợp làm việc giữa các tổ chức
đảng với các cơ quan tư pháp và các ban, ngành có liên quan theo hướng cấp ủy
định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến định hướng về công tác tư pháp. Xác định rõ
trách nhiệm tập thể và cá nhân cấp ủy viên trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư
pháp.
Kiện
toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Nội chính Trung ương; kiện toàn Ban
Nội chính cấp ủy ở những tỉnh, thành có nhu cầu và được Bộ Chính trị cho phép
thành lập; tăng cường cán bộ tham mưu về công tác nội chính - tiếp dân của cấp
ủy đảng.
III.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các
cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương cần nghiên cứu, nắm vững nội dung và
tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết này.
Đảng
đoàn Quốc hội lãnh đạo việc thể chế hóa các chủ trương, định hướng, nội dung,
nhiệm vụ cải cách tư pháp; lãnh đạo có hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan
dân cử đối với hoạt động tư pháp.
Ban cán
sự đảng Chính phủ lãnh đạo việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp có
trình độ chuyên môn, năng lực và phẩm chất chính trị, đủ số lượng cho các cơ
quan tư pháp; lãnh đạo các cơ quan có liên quan đầu tư cơ sở vật chất, phương
tiện làm việc cho các cơ quan tư pháp.
Ban cán
sự đảng Tòa án nhân dân tối cao, Ban cán sự đảng Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao, Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp, Đảng ủy Công an Trung ương, Đảng ủy Quân sự
Trung ương xây dựng chương trình, kế hoạch và xác định lộ trình thực hiện từng
công việc cụ thể thuộc trách nhiệm của mình.
2. Từ
nay đến năm 2010 phải làm được những công việc chính sau đây:
- Hoàn
thành các nhiệm vụ mà Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về
“Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đề ra.
- Sửa
đổi, bổ sung các chính sách hình sự và từng bước sửa đổi, hoàn thiện pháp luật
về tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Thực hiện có hiệu quả
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là tội tham nhũng, tội phạm có
tổ chức hoạt động theo kiểu “xã hội đen”.
- Nâng
cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất
cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp; từng
bước xã hội hóa một số hoạt động tư pháp.
- Tăng
quyền hạn, trách nhiệm tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán để
họ chủ động thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trong
hoạt động tố tụng.
- Hoàn
thành việc tăng thẩm quyền xét xử của tòa án cấp huyện, chuẩn bị điều kiện
thành lập tòa án khu vực ở cấp này; từng bước đổi mới tổ chức hệ thống tòa án
nhân dân các cấp.
- Mở
rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính; xác định
rõ thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự; viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng
thực hành quyền công tố và xác định rõ nhiệm vụ cụ thể của chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp; chuẩn bị điều kiện tổ chức viện kiểm sát các cấp phù hợp với
hệ thống tòa án.
- Nghiên
cứu trình Quốc hội xem xét việc thành lập Ủy ban Tư pháp của Quốc hội.
- Chuẩn
bị các điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để thực hiện việc chuyển giao tổ
chức và công tác thi hành án cho Bộ Tư pháp.
- Xây
dựng các chế định bổ trợ tư pháp đủ mạnh, đáp ứng kịp với tình hình; làm thí
điểm ở một số địa phương về chế định thừa phát lại; từng bước xã hội hóa các
hoạt động bổ trợ tư pháp.
- Thực
hiện việc đổi mới phân bổ ngân sách đối với hoạt động tư pháp, khắc phục những
bất hợp lý và đổi mới chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ tư
pháp.
- Xây
dựng đủ trụ sở cho các cơ quan tư pháp cấp huyện, các trại giam bảo đảm tiêu
chuẩn theo quy định hiện hành.
3. Thành
lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chiến lược Cải cách tư pháp. Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ
xây dựng chương trình, kế hoạch, các đề án và lộ trình để cụ thể hóa các nhiệm
vụ cải cách tư pháp hàng năm; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Chiến
lược Cải cách tư pháp; tổ chức việc nghiên cứu hoặc giao các cơ quan chức năng
tổ chức nghiên cứu những vấn đề mới phát sinh về cải cách tư pháp để trình cơ
quan có thẩm quyền quyết định.
TM. BỘ CHÍNH TRỊ
TỔNG BÍ THƯ Nông Đức Mạnh |