Nghị quyết 39/2012/QH13 về việc tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai
- Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành mới nhất
- Luật Khiếu nại, Tố cáo và văn bản hướng dẫn mới nhất
QUỐC HỘI
------- |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
Nghị quyết số: 39/2012/QH13
|
Hà Nội, ngày 23 tháng 11 năm 2012
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ VIỆC TIẾP TỤC NÂNG
CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU
NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN ĐỐI VỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH VỀ ĐẤT ĐAI
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆTNAM
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số
51/2001/QH10;
Căn cứ Luật hoạt động giám sát của Quốc hội số
05/2003/QH11;
Căn cứ Nghị quyết số 15/2011/QH13 về Chương trình
hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2012 ;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo kết quả giám sát số
263/BC-UBTVQH13 ngày 5 tháng 11 năm 2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Báo cáo
số 304/BC-CP ngày 26 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ về việc thực hiện chính
sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các
quyết định hành chính về đất đai và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội;
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1.
Quốc hội cơ bản tán thành nội dung Báo cáo kết quả
giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Báo cáo của Chính phủ về việc thực
hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối
với các quyết định hành chính về đất đai.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm
đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đặc biệt là trong lĩnh
vực đất đai. Chính sách, pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo ngày càng
hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho tổ chức, cá nhân thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Các cấp chính quyền đã có nhiều cố
gắng và giải quyết được phần lớn các vụ việc khiếu nại, tố cáo ngay tại địa
phương, cơ sở, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, vẫn còn
nhiều tồn tại, yếu kém như: chưa bảo đảm sự thống nhất giữa các quy định của
pháp luật về khiếu nại, tố cáo với các quy định của một số luật chuyên ngành
trong việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai. Chủ trương,
chính sách, pháp luật về đất đai hiện hành còn một số nội dung chưa đủ rõ, chưa
thật đồng bộ. Một số văn bản hướng dẫn thi hành luật chưa kịp thời, chưa đầy
đủ. Quy hoạch , kế hoạch sử dụng đất, định giá đất, bồi thường, giải phóng mặt
bằng, hỗ trợ và tái định cư , các thủ tục hành chính về đất đai còn nhiều hạn
chế, chưa đảm bảo l ợi ích của Nhà nước và người dân có đất bị thu hồi . Tham
nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực đất đai còn lớn. Có nhiều quyết định hành chính
về đất đai chưa bảo đảm trình tự, thủ tục, hình thức, thẩm quyền, nội dung theo
quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm, có nhiều sai sót.
Hiệu lực, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai chưa
cao. Một số cơ quan có thẩm quyền chưa quan tâm đúng mức đến công tác tiếp dân;
một bộ phận cán bộ, công chức thiếu gương mẫu, sa sút về phẩm chất đạo đức ;
công tác tuyên truyền, giáo dục và quán triệt các chủ trương, chính sách pháp
luật về đất đai còn kém hiệu quả. Việc thanh tra, giám sát chưa thường xuyên và
xử lý các hành vi sai phạm về đất đai chưa nghiêm, còn sai sót. Tình hình khiếu
nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn diễn biến phức tạp, khiếu nại đông người
có xu hướng tăng lên.
Điều 2.
Để thực hiện tốt chính sách, pháp luật, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả trong việc ban hành, thực hiện các quyết định hành chính và giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất
đai , Quốc hội yêu cầu tập trung thực hiện một số nội dung sau :
1. Sửa đổi, bổ sung các quy định về trình tự, thủ
tục, thẩm quyền, thời hạn, thời hiệu giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp
đất đai, nghiên cứu mở rộng thẩm quyền của Tòa án nhân dân về việc giải quyết
các tranh chấp về đất đai, bảo đảm thống nhất, đồng bộ giữa Luật đất đai, Luật
khiếu nại, Luật tố cáo, Luật tố tụng hành chính, Bộ luật tố tụng dân sự và các
luật khác có liên quan .
Sửa đổi, bổ sung Luật đất đai theo hướng cụ thể hóa
tối đa các quy định đã áp dụng ổn định trong thực tiễn. Quy định rõ các quyền
đại diện chủ sở hữu và quyền thống nhất quản lý của Nhà nước, quyền của người
sử dụng đất, các trường hợp Nhà nước thu hồi đất. Công khai quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất; Nhà nước chủ động thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất hàng năm
đã được phê duyệt. Việc giao đất, cho thuê đất để thực hiện các dự án phát
triển kinh tế, xã hội được thực hiện chủ yếu thông qua đấu giá quyền sử dụng
đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất. Nhà nước quyết định chính sách điều tiết
phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra, bảo đảm
hài hoà về lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và của nhà đầu tư. Sửa
đổi, bổ sung quy định về giá đất theo hướng giá đất do Nhà nước quy định theo
mục đích sử dụng đất tại thời điểm định giá, bảo đảm nguyên tắc phù hợp với cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; Nhà nước ban hành khung giá đất,
bảng giá đất và quy định về điều chỉnh khung giá đất, bảng giá đất bảo đảm linh
hoạt, phù hợp với từng loại đất, các đối tượng sử dụng đất và các trường hợp
giao đất, cho thuê đất; có cơ chế xử lý chênh lệch giá đất tại khu vực giáp
ranh giữa các địa phương. Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất phải bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan, công bằng và đúng quy định
của pháp luật. Quy định cụ thể trình tự, thủ tục cưỡng chế thu hồi đất, cưỡng
chế thi hành quyết định hành chính về đất đai.
Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật đầy đủ,
kịp thời, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, dễ thực
hiện.
2. Trước năm 2015 cơ bản hoàn thành việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo bản đồ địa chính, trích đo địa chính có tọa
độ. Bảo đảm kinh phí đáp ứng nhu cầu hoàn thiện và hiện đại hoá hệ thống bản đồ
địa chính, hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai, thống nhất hệ thống hồ sơ
địa chính trên cả nước. Hoàn thiện hệ thống điều tra, đánh giá tài nguyên đất,
số lượng, chất lượng, tiềm năng và môi trường đất, bảo đảm cung cấp đầy đủ
thông tin, tư liệu, dữ liệu về đất đai phục vụ cho việc hoạch định chính sách
và ban hành quyết định của cơ quan nhà nước trong việc quản lý và sử dụng đất
đai.
3. Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước theo
thẩm quyền chủ động xem xét từng vụ việc tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất
đai trong phạm vi quản lý để giải quyết kịp thời, dứt điểm, công bố công khai
kết quả giải quyết, không để khiếu kiện vượt cấp, diễn biến phức tạp, khiếu
kiện đông người; chịu trách nhiệm về việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố
cáo. N âng cao vai trò của Tòa án nhân dân các cấp trong việc giải quyết các
khiếu kiện đối với các quyết định hành chính về đất đai. Từ nay đến cuối năm
2012, tập trung rà soát, có phương án giải quyết cơ bản 528 vụ việc phức tạp,
tồn đọng, kéo dài.
4. Thực hiện nghiêm chế độ tiếp dân, kiện toàn về tổ
chức và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiếp dân từ trung ương đến địa
phương. Bố trí cán bộ có năng lực, đạo đức làm công tác quản lý nhà nước về đất
đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là cấp huyện và cấp cơ sở. Chú trọng
công tác hòa giải tại cơ sở và hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn; lãnh đạo các cấp chủ động, làm tốt công tác đối thoại trực tiếp với người
khiếu nại, tố cáo bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.
Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý trong việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh đối với các trường hợp lợi
dụng quyền khiếu nại, tố cáo để kích động, gây rối, làm mất trật tự an toàn xã
hội.
5. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng thanh
tra Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
theo nhiệm vụ được giao chỉ đạo thanh tra, kiểm tra công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo đối với các quyết định hành chính về đất đai, xử lý nghiêm những
trường hợp vi phạm. Kiên quyết xử lý cán bộ thiếu trách nhiệm trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham nhũng trong lĩnh vực đất
đai.
6. Cơ quan, người có thẩm quyền ban hành quyết định
hành chính về đất đai phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của quyết định ban
hành; có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra để xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh
trong quá trình thực hiện các quyết định hành chính. Đẩy mạnh cải cách hành
chính trong quản lý nhà nước về đất đai. Á p dụng c ông nghệ thông tin trong
việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tranh chấp, khiếu nại , tố cáo của công dân
, bảo đảm cung cấp đầy đủ thông tin cho các cơ quan có thẩm quyền về quá trình
xem xét, xử lý, giải quyết, tránh tình trạng chồng chéo, trùng lắp, một vụ việc
nhưng nhiều cơ quan hành chính , Tòa án cùng đồng thời giải quyết .
7. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ
của các cấp, các ngành trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, khắc phục tình trạng
chuyển đơn thư lòng vòng, chậm giải quyết, né tránh trách nhiệm; không để xảy
ra việc cấp có thẩm quyền đã xử lý đúng pháp luật nhưng cơ quan khác lại có ý
kiến làm vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài. P hát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, cơ quan báo chí
đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Điều 3.
Quốc hội giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức thực
hiện Nghị quyết và hàng năm báo cáo Quốc hội.
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân
theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giám sát việc thực hiện Nghị quyết này .
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam , các tổ chức
thành viên của Mặt trận, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn tham gia giám sát và
tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện Nghị quyết này.
Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 23 tháng 11 năm
2012.
CHỦ TỊCH
QUỐC HỘI
Nguyễn Sinh Hùng |
nhà tôi có một mảnh vườn rộng 200m2 thuộc diện đất xen kẹt, đang chuẩn bị nộp tiền để thành đất ở, trên đó có một ngoi mộ rộng 1m2 , bây giờ gia đình có mộ muốn xây, nâng cấp lên mà không hỏi ý kiến gia đình tôi, và không được gia đình tôi chấp nhận, họ làm như vậy có đúng không? nếu như không muốn cho họ xây lên thì gia đình tôi phải làm gì?
Trả lờiXóaKính thưa Thường vụ Quốc Hội
Trả lờiXóa- Trong quá trình giải quyết khiếu nại đất của dân bị quy hoạch KCN PM I, UBND tỉnh BRVT đã không thực hiện các nội dung trong Quyết định Số :186-2006/QĐ/TTg của Thủ Tướng Chính Phủ ngày 14/8/2006 là văn bản gốc để giải quyết khiếu nại liên quan đến đất rừng. vì tại điểm b khoản 3 Điều 33 có ghi rõ: khi xác lập quy hoạch rừng phòng hộ, đối với đất thổ cư, ruộng, vườn, nương rẩy cố định xen kẻ trong rừng phòng hộ thì không quy hoạch vào khu rừng phòng hộ và được quản lý của pháp luật về đất đai; mà UBND Tỉnh lại đưa ranh giới dự án 595 ra tranh chấp với dân, dẫn tới khiếu kiện đông người, kéo dài nhiều năm, gây bất ổn xã hội.
Qua tham khảo toàn văn Nghị quyết số: 39/2012/QH13 của Quốc Hội,cho chúng tôi một niềm tin lớn bởi vì chỉ khi Quốc Hội đã nắm bắt hầu hết những gì khuất tất mà nhân dân đã và đang đối mặt hàng ngày hàng giờ thì mới có thể đưa ra một Nghị quyết cương lĩnh sắc bén kịp thời phù hợp lòng dân như vậy.
Với trường hợp điển hình của gia đình tôi khiếu kiện từ năm 2002 đến nay vẫn chưa có kết quả, là một trong hàng ngàn trường hợp đâu đó trong các Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, kính mong Thường vụ Quốc Hội sẽ giám sát,chỉ đạo giải quyết dứt điểm những trường hợp chính sách chủ trương về khiếu nại đất đai chưa được thực hiện đến nơi đến chốn để sớm an lòng dân .
Xin chân thành cám ơn !