Thông tư liên tịch 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Toà án nhân dân
- Tải văn bản (file .doc)
- Bộ Luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn mới nhất
- Bộ Luật dân sự và các văn bản hướng dẫn mới nhất
TANDTC-VKSNDTC-BỘ VH, THỂ
THAO VÀ DL-BỘ KH VÀ CN-BỘ TƯ PHÁP
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
Số:
02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP
|
Hà Nội, ngày
03 tháng 4 năm 2008
|
THÔNG TƯ LIÊN
TỊCH
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG
MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỞ
HỮU TRÍ TUỆ TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN
Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định của
pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí
tuệ tại Toà án nhân dân; Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tư pháp
thống nhất hướng dẫn một số điểm như sau:
A. VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. CÁC TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỞ
HỮU TRÍ TUỆ THUỘC THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN (QUY ĐỊNH TẠI KHOẢN
4 ĐIỀU 25 VÀ KHOẢN 2 ĐIỀU 29 BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ)
1. Các tranh chấp về quyền tác
giả
a) Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quyền
tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, tác phẩm phái sinh;
b) Tranh chấp giữa các đồng tác giả về phân chia
quyền đồng tác giả;
c) Tranh chấp giữa cá nhân và tổ chức về chủ sở
hữu quyền tác giả tác phẩm;
d) Tranh chấp giữa chủ sở hữu quyền tác giả với
tác giả về tiền nhuận bút, tiền thù lao cho tác giả sáng tạo tác phẩm trên cơ
sở nhiệm vụ được giao hoặc hợp đồng;
đ) Tranh chấp về thực hiện quyền nhân thân hoặc
quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả;
e) Tranh chấp về quyền tác giả đối với chương
trình máy tính, sưu tập dữ liệu giữa người cung cấp tài chính và các điều kiện
vật chất có tính chất quyết định cho việc xây dựng, phát triển chương trình máy
tính, sưu tập dữ liệu với người thiết kế, xây dựng chương trình máy tính, sưu
tập dữ liệu;
g) Tranh chấp về quyền tác giả đối với tác phẩm
điện ảnh, tác phẩm sân khấu giữa người đầu tư tài chính và cơ sở vật chất - kỹ
thuật để sản xuất tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu với người tham gia sáng
tạo và người sản xuất ra tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu hoặc tranh chấp
giữa họ với nhau về tiền nhuận bút, thù lao và các quyền lợi vật chất khác;
h) Tranh chấp giữa chủ sở hữu quyền tác giả với
người sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền
nhuận bút, thù lao, vì lý do việc sử dụng làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình
thường tác phẩm, gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm;
i) Tranh chấp giữa chủ sở hữu quyền tác giả với
người sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận
bút, thù lao vì lý do người sử dụng không trả tiền nhuận bút, thù lao hoặc làm
ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, gây phương hại đến các quyền
của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả;
k) Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng, chuyển
quyền sử dụng quyền tác giả hoặc tranh chấp về hợp đồng dịch vụ bản quyền tác
giả;
l) Tranh chấp phát sinh do hành vi xâm phạm
quyền tác giả;
m) Tranh chấp về thừa kế, kế thừa quyền tài sản
quy định tại Điều 20 và quyền nhân thân theo quy định tại khoản 3 Điều 19 của
Luật Sở hữu trí tuệ.
n) Tranh chấp khác về quyền tác giả theo quy
định của pháp luật.
2. Các tranh chấp về quyền liên
quan
a) Tranh chấp giữa chủ đầu tư với người biểu
diễn về quyền nhân thân và quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn; tranh chấp
giữa người biểu diễn với người khai thác sử dụng các quyền tài sản đối với cuộc
biểu diễn về tiền thù lao;
b) Tranh chấp giữa nhà sản xuất bản ghi âm, ghi
hình với người thực hiện các quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình về
quyền lợi vật chất khi bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất được phân phối đến
công chúng;
c) Tranh chấp giữa tổ chức phát sóng với người
sử dụng các quyền của tổ chức phát sóng về quyền lợi vật chất khi chương trình
phát sóng của tổ chức đó được ghi âm, ghi hình, phân phối đến công chúng;
d) Tranh chấp giữa người biểu diễn, nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng với người sử dụng quyền liên quan không
phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao vì lý do việc sử dụng làm
ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng và gây phương hại đến quyền của người biểu diễn, nhà sản
xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng;
đ) Tranh chấp giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng với
người sử dụng quyền liên quan không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận
bút, thù lao, vì lý do người sử dụng không phải trả tiền nhuận bút, thù lao
hoặc làm ảnh hưởng đến việc khai thác hình thường cuộc biểu diễn, bản ghi âm,
ghi hình, chương trình phát sóng và gây phương hại đến quyền của người biểu
diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng;
e) Tranh chấp về quyền liên quan đối với cuộc
biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng (tranh chấp ai là chủ
sở hữu đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng
đó...);
g) Tranh chấp phát sinh do hành vi xâm phạm
quyền liên quan;
h) Tranh chấp về thừa kế, kế thừa quyền liên
quan;
i) Tranh chấp khác về quyền liên quan theo quy
định của pháp luật.
3. Các tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp
a) Tranh chấp về quyền đăng ký sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý;
b) Tranh chấp về quyền ưu tiên đối với đơn đăng
ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu;
c) Tranh chấp về quyền tác giả sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, thiết kế bố trí;
d) Tranh chấp về quyền nhân thân, quyền tài sản
của tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí;
đ) Tranh chấp về quyền tạm thời đối với sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí giữa người có quyền nộp đơn đăng ký
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí với người đang sử dụng các đối
tượng sở hữu công nghiệp đó hoặc tranh chấp về khoản tiền đền bù giữa chủ văn
bằng bảo hộ với người đã sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố
trí;
e) Tranh chấp về quyền sử dụng trước sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp giữa chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp với người
sử dụng trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp liên quan đến việc chuyển giao
quyền đó cho người khác, mở rộng phạm vi, khối lượng sử dụng mà không được phép
của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp;
g) Tranh chấp về khoản tiền đền bù giữa chủ văn
bằng bảo hộ sáng chế, kiểu dáng công nghiệp; thiết kế bố trí với người sử dụng
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp; thiết kế bố trí trong khoảng thời gian từ ngày
công bố đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ trên Công báo sở hữu công nghiệp đến ngày
cấp văn bằng bảo hộ;
h) Tranh chấp về quyền của chủ sở hữu đối tượng
sở hữu công nghiệp (bao gồm cả tranh chấp về phần quyền của các đồng chủ sở
hữu);
i) Tranh chấp phát sinh từ các hành vi xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp;
k) Tranh chấp phát sinh từ các hành vi xâm phạm
quyền của tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp; thiết kế bố trí;
l) Tranh chấp về trả thù lao cho tác giả sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí;
m) Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sở
hữu công nghiệp; hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
hoặc tranh chấp về hợp đồng dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp;
n) Tranh chấp về thừa kế, kế thừa quyền sở hữu
công nghiệp, quyền
tài sản của tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp; thiết kế bố trí;
tài sản của tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp; thiết kế bố trí;
o) Tranh chấp phát sinh từ các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh;
p) Các tranh chấp khác về quyền sở hữu công
nghiệp theo quy định của pháp luật.
II. QUYỀN KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1. Quyền khởi kiện vụ án dân
sự về quyền tác giả, quyền liên quan
a) Cá nhân, tổ chức quy định tại Điều 44 của
Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21-9-2006 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền
tác giả, quyền liên quan (sau đây viết tắt là Nghị định số 100/2006/NĐ-CP) có
quyền khởi kiện vụ án dân sự về quyền tác giả, quyền liên quan tại Toà án nhân
dân có thẩm quyền để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
b) Cơ quan nhà nước, tổ chức liên quan trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ
lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực quyền tác giả, quyền
liên quan theo quy định tại khoản 3 Điều 162 của Bộ luật tố tụng dân sự và
hướng dẫn tại tiểu mục 2.1 mục 2 Phần I của Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày
12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các
quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm”
của Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Quyền khởi kiện vụ án dân
sự về quyền sở hữu công nghiệp
a) Cá nhân, tổ chức tranh chấp về quyền đăng ký
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý;
b) Tác giả, đồng tác giả sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, thiết kế bố trí;
c) Chủ văn bằng bảo hộ sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí;
d) Chủ sở hữu giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu,
đăng ký quốc tế nhãn hiệu được chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam , chủ sở hữu
nhãn hiệu nổi tiếng;
đ) Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với
bí mật kinh doanh, tên thương mại;
e) Cá nhân, tổ chức có quyền sử dụng hợp pháp
chỉ dẫn địa lý, tổ chức tập thể đại diện cho cá nhân, tổ chức được trao quyền
sử dụng chỉ dẫn địa lý;
g) Tổ chức, cá nhân có đối tượng sở hữu công
nghiệp liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp;
h) Người thừa kế hợp pháp của tác giả sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí; hoặc người thừa kế hợp pháp, người kế
thừa quyền sở hữu công nghiệp của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp;
i) Cá nhân, tổ chức được chuyển giao hợp pháp
quyền sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp;
k) Cá nhân, tổ chức được chuyển giao hợp pháp
quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp;
l) Cá nhân, tổ chức được chuyển giao quyền sử
dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền;
m) Các chủ thể quyền khác theo quy định của pháp
luật.
III. ĐIỀU KIỆN KHỞI KIỆN VỤ ÁN
DÂN SỰ VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1. Điều kiện khởi kiện vụ án
dân sự về quyền tác giả, quyền liên quan
a) Quyền tác giả, quyền liên quan đã phát sinh
theo các quy định tại các khoản 1 và 2 Điều 6 của Luật sở hữu trí tuệ.
Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu
quyền liên quan có quyền nộp đơn để được cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác
giả, giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan theo quy định tại Điều 49 của Luật
sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, đây không phải là thủ tục bắt buộc để được hưởng
quyền tác giả, quyền liên quan.
Khi có tranh chấp về quyền tác giả, quyền liên
quan mà đương sự khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
họ, thì Toà án phải xem xét mà không phân biệt việc họ đã có giấy chứng nhận
đăng ký quyền tác giả, giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan hay chưa, họ đã
nộp đơn hay chưa nộp đơn đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan.
b) Thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên
quan vẫn còn theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu
quyền liên quan chỉ được thực hiện quyền nhân thân và quyền tài sản của mình
trong phạm vi và thời hạn quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan
được quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 739 của Bộ luật dân sự năm 2005, tại
Điều 27 và Điều 34 của Luật sở hữu trí tuệ và tại Điều 26 của Nghị định số
100/2006/NĐ-CP.
Hết thời hạn bảo hộ đối với quyền tác giả, quyền
liên quan theo quy định nêu trên (trừ các quyền nhân thân quy định tại các
khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật sở hữu trí tuệ), thì các quyền của tác giả,
chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan không còn được Nhà nước và
pháp luật bảo hộ; do đó, Toà án chỉ thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết nếu các
quyền đó vẫn còn trong thời hạn bảo hộ, trừ trường hợp pháp luật không quy định
thời hạn bảo hộ đối với quyền tác giả.
2. Điều kiện khởi kiện vụ án
dân sự về quyền sở hữu công nghiệp
2.1. Quyền sở hữu công nghiệp đã được xác lập
theo các căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 6 của Luật sở hữu trí tuệ và Điều 6
của Nghị định
số 103/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp (sau đây viết tắt là Nghị định số 103/2006/NĐ-CP).
số 103/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp (sau đây viết tắt là Nghị định số 103/2006/NĐ-CP).
Phải xác định cụ thể tranh chấp liên quan đến
đối tượng sở hữu công nghiệp nào (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố
trí, nhãn hiệu...) để xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với
đối tượng đó. Vì không phải trong mọi trường hợp căn cứ xác lập quyền sở hữu
công nghiệp đối với mọi đối tượng sở hữu công nghiệp đều như nhau, có trường
hợp phải qua thủ tục đăng ký, có trường hợp không phải qua thủ tục đăng ký. Ví
dụ: Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết
định cấp văn bằng bảo hộ của Cục sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) theo
thủ tục đăng ký quy định tại Luật sở hữu trí tuệ và các văn bản quy phạm pháp
luật khác có liên quan hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Riêng đối với
nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu này được xác
lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng rộng rãi nhãn hiệu đó và các tiêu chí quy định
tại Điều 75 của Luật sở hữu trí tuệ mà không cần thủ tục đăng ký.
Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu công
nghiệp đối với đối tượng sở hữu công nghiệp và cần thiết phải xác định quyền sở
hữu công nghiệp đã được xác lập hợp pháp hay chưa, thì cần phân biệt như sau:
a) Phải căn cứ vào văn bằng bảo hộ do Cục Sở hữu
trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) quyết định cấp cho người nộp đơn đăng ký đối
với sáng chế, thiết kế bố trí, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu (trừ nhãn hiệu
nổi tiếng) và chỉ dẫn địa lý. Đối với nhãn hiệu đăng ký quốc tế theo Thoả ước Madrid và Nghị định thư Madrid , thì căn cứ vào công nhận của cơ quan
quản lý nhà nước đối với đăng ký quốc tế đó.
b) Phải căn cứ vào các điều kiện bảo hộ đối với
các đối tượng sở hữu công nghiệp là nhãn hiệu nổi tiếng, tên thương mại, bí mật
kinh doanh, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, quy định tại các mục 4, 5
và 7 Chương VII của Luật sở hữu trí tuệ.
2.2. Thời hạn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
vẫn còn theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
a) Đối với quyền sở hữu công nghiệp đã được xác
lập cho các đối tượng sở hữu công nghiệp là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý phải căn cứ vào văn bằng bảo hộ được
cấp cho từng loại đối tượng sở hữu công nghiệp để xác định phạm vi bảo hộ ghi
trong văn bằng bảo hộ đó.
Ví dụ: Để xác định phạm vi bảo hộ sáng chế, phải
căn cứ vào Bằng độc quyền sáng chế do Cục sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công
nghệ) cấp.
b) Đối với quyền sở hữu công nghiệp được xác lập
cho các đối tượng là tên thương mại, bí mật kinh doanh, thì phạm vi quyền được
xác định theo quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 16 của Nghị định số
103/2006/NĐ-CP.
c) Thời hạn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được
xác định căn cứ vào thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ quy định tại Điều 93
của Luật sở hữu trí tuệ. Trong trường hợp hiệu lực của văn bằng bảo hộ bị chấm
dứt hoặc bị huỷ bỏ hiệu lực, thì quyền sở hữu công nghiệp cũng chấm dứt.
Nếu hết thời hạn bảo hộ hoặc văn bằng bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp bị chấm dứt hoặc bị huỷ bỏ hiệu lực, thì các quyền của
chủ thể quyền sở hữu công nghiệp không còn được Nhà nước và pháp luật bảo hộ.
Do đó, Toà án chỉ thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết nếu hành vi xâm phạm xảy
ra vào thời điểm văn bằng bảo hộ còn hiệu lực hoặc đối tượng quyền sở hữu
công nghiệp vẫn còn trong thời hạn được bảo hộ.
công nghiệp vẫn còn trong thời hạn được bảo hộ.
IV. ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
1. áp dụng văn bản quy phạm
pháp luật trong nước
1.1. Đối với trường hợp có sự khác nhau giữa quy
định về sở hữu trí tuệ của Luật sở hữu trí tuệ với quy định của luật khác, thì
áp dụng quy định của Luật sở hữu trí tuệ.
Trước khi quyết định áp dụng quy định của Luật
sở hữu trí tuệ hoặc của văn bản quy phạm pháp luật khác, phải rà soát, xác định
cụ thể các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về sở hữu trí tuệ (bao gồm cả
Bộ luật dân sự năm 2005); sau đó so sánh, đối chiếu các quy định về sở hữu trí
tuệ của các văn bản quy phạm pháp luật này với các quy định tương ứng của Luật
sở hữu trí tuệ để xác định sự khác nhau trong các quy định về sở hữu trí tuệ
của các văn bản quy phạm pháp luật đó.
Ví dụ 1: Khoản 3 Điều 738 của Bộ luật dân sự năm
2005 quy định quyền tài sản thuộc quyền tác giả bao gồm:
a) Sao chép tác phẩm;
b) Cho phép tạo tác phẩm phái sinh;
c) Phân phối, nhập khẩu bản gốc và bản sao tác
phẩm;
d) Truyền đạt tác phẩm đến công chúng;
đ) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao chương trình
máy tính.
Trong Luật sở hữu trí tuệ, quyền tài sản được
quy định tại Điều 20. Khoản 1 Điều 20 quy định quyền tài sản bao gồm sáu quyền.
So với quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật sở hữu trí tuệ, thì tại khoản 3
Điều 738 của Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định khác về các quyền biểu diễn
tác phẩm trước công chúng, cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh. Do
đó, khi giải quyết các tranh chấp về các quyền này phải áp dụng quy định tại
các điểm b hoặc e khoản 1 Điều 20 của Luật sở hữu trí tuệ.
Ví dụ 2: Luật Hải quan quy định tạm dừng làm thủ
tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu, xuất khẩu có yêu cầu bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ tại các điều 57, 58 và 59. Luật sở hữu trí tuệ quy định kiểm soát
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ tại các điều từ Điều
216 đến Điều 219. Do đó, nếu xác định rõ quy định của Luật Hải quan khác với
quy định của Luật sở hữu trí tuệ về kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
liên quan đến sở hữu trí tuệ, thì áp dụng quy định của Luật sở hữu trí tuệ.
1.2. Trường hợp có những vấn đề dân sự liên quan
đến sở hữu trí tuệ không được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ, thì áp dụng
quy định của Bộ luật dân sự.
Khi áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh
chấp về quyền sở hữu trí tuệ, phải căn cứ vào các quy định của Luật sở hữu trí
tuệ và của Bộ luật dân sự năm 2005 (Phần thứ sáu) “Quyền sở hữu trí tuệ và
chuyển giao công nghệ” (từ Điều 736 đến Điều 753) để xác định rõ đối tượng của
tranh chấp đó có được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ hoặc trong Bộ luật dân
sự năm 2005 hay không. Nếu có căn cứ xác định rằng đối tượng của tranh chấp
không được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ mà được quy định trong Bộ luật
dân sự năm 2005, thì áp dụng quy định tương ứng của Bộ luật dân sự năm 2005.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 40 của Luật sở hữu
trí tuệ, thì “tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả theo quy định của
pháp luật về thừa kế là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3
Điều 19 của Luật này”. Do Luật sở hữu trí tuệ không quy định cụ thể về thừa kế
quyền tác giả nên khi giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền tác giả phải áp
dụng quy định tại Phần thứ tư “Thừa kế” của Bộ luật dân sự năm 2005.
2. Áp dụng Điều ước quốc tế
Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật sở
hữu trí tuệ, thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
2.1. Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập là thoả thuận bằng văn bản được ký kết hoặc
gia nhập nhân danh Nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với một hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc chủ thể khác
của pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp
định, định ước, thoả thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc
văn kiện có tên gọi khác (khoản 1 Điều 2 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện
điều ước quốc tế).
2.2. Điều ước quốc tế bao gồm:
a) Điều ước quốc tế đa phương
Ví dụ:
- Công ước Berne
về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, năm 1971.
- Công ước Paris
về bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883, được sửa đổi năm 1979.
- Thoả ước Madrid
về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá, năm 1891 và Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc
tế nhãn hiệu hàng hoá...
b) Điều ước quốc tế song phương.
Ví dụ:
- Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,
năm 2001.
- Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ giữa
Việt Nam
và Thuỵ Sỹ, năm 2000.
c) Điều ước quốc tế đa phương hoặc song phương
nêu trên có thể là điều ước quốc tế riêng về bảo hộ sở hữu trí tuệ hoặc điều
ước quốc tế có nhiều nội dung khác nhau trong đó có nội dung về bảo hộ sở hữu
trí tuệ.
Ví dụ:
- Công ước Berne ,
năm 1971 là điều ước quốc tế đa phương riêng về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ
thuật.
- Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là điều
ước quốc tế có nhiều nội dung khác nhau trong đó có nội dung về bảo hộ sở hữu
trí tuệ (“Chương I: Thương mại hàng hoá, Chương II: Quyền sở hữu trí tuệ và
Chương III: Thương mại dịch vụ...”).
2.3. Điều kiện áp dụng điều ước quốc tế
a) Điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ mà Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên tại thời điểm xảy ra hành vi, sự kiện là đối tượng
tranh chấp.
tranh chấp.
b) Quy định của điều ước quốc tế đó về sở hữu
trí tuệ khác với quy định của các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về cùng một
vấn đề.
Ví dụ: Về thời hạn bảo hộ quyền tác giả có sự
khác nhau giữa quy định tại Điều 27 của Luật sở hữu trí tuệ và quy định tại
khoản 4 Điều 4 của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Do có sự khác nhau
như vậy, phải áp dụng quy định này của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ để giải quyết tranh chấp về quyền
tác giả giữa cá nhân, tổ chức Việt Nam và cá nhân, tổ chức Hoa Kỳ.
c) Đối với trường hợp văn bản quy phạm pháp luật
của Việt Nam có quy định
giống với quy định của điều ước quốc tế về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định
của pháp luật Việt Nam .
d) Đối với trường hợp có những vấn đề liên quan
đến sở hữu trí tuệ không được quy định trong luật Việt Nam thì áp dụng
quy định tương ứng của điều ước quốc tế.
đ) Đối với trường hợp tranh chấp về quyền sở hữu
trí tuệ có sự tham gia của cá nhân, tổ chức của nước ngoài mà nước đó và Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều là thành viên của điều ước quốc tế thì áp
dụng điều ước quốc tế có hiệu lực sau, trừ giữa nước đó và Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có quy định hoặc thoả thuận khác.
Ví dụ: Khoản 3 Điều 1 Chương II (Quyền sở hữu
trí tuệ) Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ quy định:
“Để bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ một
cách đầy đủ và có hiệu quả, mỗi Bên tối thiểu phải thực hiện Chương này và các
quy định có nội dung kinh tế của:
A. Công ước Geneva về bảo hộ người sản xuất bản ghi âm
chống sự sao chép trái phép, năm 1971;
B. Công ước Berne
về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật, năm 1971;
C. Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp, năm 1967;
D....
E. Công ước về phân phối tín hiệu mang chương
trình truyền qua vệ tinh (1974)”.
Do đó, khi giải quyết tranh chấp về quyền tác
giả mà có sự tham gia của cá nhân, tổ chức Hoa Kỳ, thì phải áp dụng đồng thời
các điều khoản tương ứng của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và Công ước Berne .
V. ÁP DỤNG ĐIỀU KHOẢN CHUYỂN
TIẾP ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1. Áp dụng pháp luật về sở
hữu trí tuệ để giải quyết tranh chấp về quyền tác giả, quyền liên quan.
Đối với quyền tác giả, quyền liên quan được bảo
hộ theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trước ngày Luật
sở hữu trí tuệ có hiệu lực (01-7-2006), nếu còn thời hạn bảo hộ vào ngày
01-7-2006, thì tiếp tục được bảo hộ theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ. Do
đó, khi giải quyết loại tranh chấp này, thì Toà án áp dụng quy định của Luật sở
hữu trí tuệ.
2. Áp dụng pháp luật về sở
hữu trí tuệ để giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp.
“Đối với quyền sở hữu công nghiệp được xác lập
theo văn bằng bảo hộ được cấp theo quy định của pháp luật có hiệu lực trước
ngày Luật sở hữu trí tuệ có hiệu lực (01-7-2006) và các thủ tục duy trì, gia
hạn, sửa đổi, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng quyền sở hữu, giải quyết
tranh chấp liên quan đến văn bằng bảo hộ đó được áp dụng theo quy định của Luật
sở hữu trí tuệ, trừ quy định về căn cứ huỷ bỏ hiệu lực các văn bằng bảo hộ, thì
chỉ áp dụng quy định của các văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm cấp
văn bằng bảo hộ”.
Do đó, khi giải quyết loại tranh chấp về quyền
sở hữu công nghiệp nêu trên, thì Toà án áp dụng quy định của Luật sở hữu trí
tuệ, trừ trường hợp tranh chấp có liên quan đến việc xác định hiệu lực của các
văn bằng bảo hộ, thì phải áp dụng quy định của các văn bản pháp luật có hiệu
lực tại thời điểm cấp văn bằng bảo hộ đó về căn cứ huỷ bỏ hiệu lực của các văn
bằng bảo hộ.
VI. GIÁM ĐỊNH VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ là một
trong các tranh chấp dân sự nói chung được giải quyết theo các trình tự, thủ
tục được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, khi có yêu cầu giám
định, Toà án phải căn cứ vào quy định tại Điều 90 của Bộ luật tố tụng dân sự và
hướng dẫn tại mục 6 Phần IV của Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005
của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự về “Chứng minh và chứng cứ” và quy định tại
khoản 3 Điều 201 của Luật sở hữu trí tuệ và tại các điểm a và c khoản 2 Điều 40
của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ (sau đây viết tắt là Nghị
định số 105/2006/NĐ-CP).
B. VỀ MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA
LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
I. VỀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI (ĐIỀU 204 VÀ ĐIỀU 205 CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ)
1. Thiệt hại do hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ được bồi thường bao gồm thiệt hại về vật chất và
thiệt hại về tinh thần
1.1. Thiệt hại về vật chất bao gồm:
a) Các tổn thất về tài sản;
b) Mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận;
c) Tổn thất về cơ hội kinh doanh;
d) Chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt
hại.
1.2. Thiệt hại về tinh thần bao gồm:
Các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh
tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học, người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, thiết kế bố trí.
1.3. Thiệt hại về vật chất và tinh thần là sự
tổn thất thực tế về vật chất và tinh thần do hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra
cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và được xác định theo các căn cứ quy định tại
khoản 2 Điều 16 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP. Khi áp dụng quy định tại khoản
2 Điều 16 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP, cần phân biệt một số điểm sau đây:
Chỉ được coi là có tổn thất thực tế nếu có đầy
đủ ba căn cứ sau đây:
a) Lợi ích vật chất hoặc tinh thần là có thực và
thuộc về người bị thiệt hại.
Lợi ích vật chất hoặc tinh thần là kết quả (sản
phẩm) của quyền sở hữu trí tuệ và người bị thiệt hại là người có quyền hưởng
lợi ích vật chất hoặc tinh thần đó.
b) Người bị thiệt hại có khả năng đạt được lợi
ích vật chất hoặc tinh thần.
Người bị thiệt hại có thể đạt được (thu được)
lợi ích vật chất hoặc tinh thần đó trong điều kiện nhất định, nếu không có hành
vi xâm phạm xảy ra.
c) Có sự giảm sút hoặc mất lợi ích của người bị
thiệt hại sau khi hành vi xâm phạm xảy ra so với khả năng đạt được lợi ích đó
khi không có hành vi xâm phạm và hành vi là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự
giảm sút, mất lợi ích đó; cụ thể là:
Trước khi xảy ra hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ, người bị thiệt hại đã có lợi ích vật chất hoặc tinh thần. Sau khi hành
vi xâm phạm xảy ra người bị thiệt hại bị giảm sút hoặc mất lợi ích mà họ đạt
được trước khi có hành vi xâm phạm và giữa hành vi xâm phạm và sự giảm sút, mất
lợi ích đó phải có mối quan hệ nhân quả. Sự giảm sút, mất lợi ích đó là kết quả
tất yếu của hành vi xâm phạm và ngược lại hành vi xâm phạm là nguyên nhân trực
tiếp gây ra sự giảm sút, mất lợi ích đó.
1.4. Tổn thất về tài sản được xác định theo quy
định tại Điều 17 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP.
Khi người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường về tổn
thất về tài sản, thì phải nêu rõ giá trị tính được thành tiền của đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ tại thời điểm bị xâm phạm và căn cứ xác định giá trị tính
được thành tiền của đối tượng quyền sở hữu trí tuệ đó.
Ví dụ: Nếu yêu cầu bồi thường tổn thất về tài
sản do nhãn hiệu bị xâm phạm, thì nêu rõ giá trị của nhãn hiệu đó tại thời điểm
bị xâm phạm và căn cứ để xác định giá trị của nhãn hiệu.
1.5. Giảm sút về thu nhập, lợi nhuận được xác
định theo quy định tại Điều 18 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP.
Để xác định giảm sút về thu nhập, lợi nhuận của
người bị thiệt hại, thì phải xác định được họ có thu nhập, lợi nhuận trước khi
xảy ra hành vi xâm phạm hay không.
a) Thu nhập, lợi nhuận bao gồm:
a.1) Thu nhập, lợi nhuận mà người bị thiệt hại
thu được do sử dụng, khai thác trực tiếp đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
Ví dụ: Chủ sở hữu sáng chế sản xuất sản phẩm
được bảo hộ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 124 của Luật sở hữu trí tuệ
và bán sản phẩm đó thu lợi nhuận.
a.2) Thu nhập, lợi nhuận mà người bị thiệt hại
thu được do cho thuê đối tượng quyền sở hữu trí tuệ (là bản gốc hoặc bản sao
tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính).
Ví dụ: Chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm
điện ảnh hoặc chương trình máy tính thực hiện quyền tài sản quy định tại điểm e
khoản 1 Điều 20 của Luật sở hữu trí tuệ cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm
điện ảnh, chương trình máy tính và được nhận tiền thù lao, các quyền lợi vật
chất khác của tổ chức, cá nhân được thuê tác phẩm điện ảnh, chương trình máy
tính đó.
a.3) Thu nhập, lợi nhuận mà người bị thiệt hại
thu được do chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
Ví dụ: Chủ sở hữu sáng chế ký hợp đồng chuyển
quyền sử dụng sáng chế cho phép cá nhân, tổ chức khác sử dụng sáng chế và được
nhận khoản tiền chuyển giao quyền sử dụng sáng chế theo thoả thuận.
b) Trên cơ sở thu nhập, lợi nhuận đã xác định
được của người bị thiệt hại, cần xác định mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận
của họ theo một hoặc các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 18 của Nghị định số
105/2006/NĐ-CP.
Ví dụ: Nếu thu nhập, lợi nhuận thu được do sử
dụng, khai thác trực tiếp quyền sở hữu trí tuệ, thì so sánh trực tiếp mức thu
nhập, lợi nhuận thực tế trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm đã xác định
được để làm rõ mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận của người bị thiệt hại. Nếu
thu nhập, lợi nhuận của người bị thiệt hại, sau khi xảy ra hành vi xâm phạm
thấp hơn thu nhập, lợi nhuận trước khi xảy ra hành vi đó, thì khoản chênh lệch
đó là thu nhập, lợi nhuận thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút.
Khi xác định thu nhập, lợi nhuận của người bị
thiệt hại phải xác định rõ các yếu tố khách quan tác động đến sự tăng hoặc giảm
thu nhập, lợi nhuận của người bị thiệt hại không liên quan đến hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ để bảo đảm xác định thu nhập, lợi nhuận thực tế của người
bị thiệt hại bị giảm sút.
Đối với trường hợp có hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ, nhưng khi xác định thiệt hại tại thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm
so với thời điểm trước khi xảy ra hành vi xâm phạm, thu nhập, lợi nhuận của bên
bị xâm phạm tuy không giảm sút, nhưng so với thu nhập, lợi nhuận thực tế đáng
lẽ ra họ phải có được nếu không có hành vi xâm phạm vẫn bị giảm đi, thì trường
hợp này cũng được coi là thu nhập, lợi nhuận bị giảm sút.
Ví dụ: Năm 2004 Công ty A. đầu tư dây chuyền
công nghệ mới sản xuất thép xây dựng mang nhãn hiệu “TN”. Thị trường xây dựng
đang tiêu thụ rất nhiều loại thép này. Căn cứ vào yêu cầu đặt hàng, thì Công ty
A. có thể tiêu thụ được 200.000 tấn thép “TN” đạt doanh thu 10 tỷ đồng (VNĐ),
lợi nhuận 2 tỷ VNĐ (100%). Do Công ty B. sử dụng trái phép nhãn hiệu “TN” của
Công ty A. để gắn lên sản phẩm thép của mình và bán ra thị trường làm cho Công
ty A bị mất 20% thị phần, không tiêu thụ được 40.000 tấn thép, giảm 20% doanh
thu và 20% lợi nhuận (bằng 400 triệu VNĐ). So với lợi nhuận của năm trước
(2005), thì lợi nhuận của năm 2006 không bị giảm. Nhưng do có hành vi xâm phạm
của Công ty B. mà Công ty A bị giảm 400 triệu VNĐ lợi nhuận. Đây được coi là
thiệt hại của Công ty A.
1.6. Tổn thất về cơ hội kinh doanh được xác định
theo quy định tại Điều 19 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP.
Cơ hội kinh doanh là hoàn cảnh thuận lợi, khả
năng thực tế để chủ thể quyền sở hữu trí tuệ sử dụng, khai thác trực tiếp, cho
người khác thuê, chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
chuyển nhượng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ cho người khác...để thu lợi nhuận.
a) Cơ hội kinh doanh bao gồm:
a.1) Khả năng thực tế sử dụng, khai thác trực
tiếp đối tượng quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh. Cụ thể là đối với chủ thể
quyền, việc sử dụng, khai thác trực tiếp đối tượng quyền sở hữu trí tuệ của
mình trong kinh doanh (trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi) có thể xuất
hiện, có thể xảy ra trong điều kiện nhất định.
a.2) Khả năng thực tế cho người khác thuê đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ (bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương
trình máy tính). Cụ thể là chủ thể quyền có thể cho cá nhân, tổ chức thuê đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ và đã thực hiện việc đàm phán, thoả thuận với cá nhân,
tổ chức về những nội dung chủ yếu để đi đến ký kết hợp đồng thuê đối tượng đó.
Hợp đồng sẽ được ký kết và thực hiện trong điều kiện bình thường không có sự
xâm phạm từ người thứ ba.
a.3) Khả năng thực tế chuyển giao quyền sử dụng
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, chuyển nhượng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ đó
cho người khác. Cụ thể là chủ thể quyền nhận được đơn đặt hàng đã đàm phán,
thoả thuận với đối tác về những nội dung chủ yếu để đi đến ký kết hợp đồng và
hợp đồng sẽ được ký kết và được thực hiện trong điều kiện không có sự xâm phạm
từ phía người thứ ba.
a.4) Cơ hội kinh doanh khác bị mất do hành vi
xâm phạm trực tiếp gây ra. Trường hợp này có thể bao gồm việc mất cơ hội đàm
phán với đối tác, mất cơ hội kinh doanh, liên kết trong đầu tư, trong tiếp thị,
quảng cáo, xúc tiến thương mại thông qua các cuộc triển lãm, trưng bày quốc
tế... do bị chiếm đoạt đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
b) Tổn thất về cơ hội kinh doanh là thiệt hại về
giá trị tính được thành tiền khoản thu nhập mà người bị thiệt hại có thể có
được khi thực hiện các khả năng quy định tại khoản 1 Điều 19 của Nghị định số
105/2006/NĐ-CP và hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.6 này, nhưng thực tế không có
được khoản thu nhập đó do hành vi xâm phạm gây ra.
Khi xem xét yêu cầu bồi thường về tổn thất cơ
hội kinh doanh, Toà án yêu cầu người bị thiệt hại phải nêu rõ và chứng minh cơ
hội kinh doanh bị mất là gì, thuộc trường hợp nào nêu trên đây và giá trị tính
được thành tiền đối với trường hợp đó để Toà án xem xét quyết định.
1.7. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục
thiệt hại bao gồm các chi phí quy định tại Điều 20 của Nghị định số
105/2006/NĐ-CP.
1.8. Thiệt hại về tinh thần nêu tại tiểu mục 1.2
mục 1 Phần I này, phát sinh là do quyền nhân thân của tác giả tác phẩm văn học,
nghệ thuật, khoa học; người biểu diễn, tác giả của sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí bị xâm phạm, tác giả bị tổn hại về danh dự, nhân phẩm,
bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm (uy tín), danh tiếng, lòng tin vì bị hiểu
nhầm... và cần phải được bồi thường thiệt hại về tinh thần.
2. Căn cứ xác định mức bồi
thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
2.1. Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về vật chất cho mình,
thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường thiệt hại theo một trong
các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ do nguyên đơn
lựa chọn.
a) Khi xác định lợi nhuận mà bị đơn đã thu được
do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại điểm a khoản 1
Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ, phải xem xét đến các khoản chi phí mà bị đơn
đã bỏ ra để có thể khấu trừ khoản tiền này trong tổng doanh thu của bị đơn hoặc
xác định một phần lợi nhuận của bị đơn là doanh thu từ các hoạt động khác không
liên quan đến hành vi xâm phạm, nếu có.
Tổng doanh thu của bị đơn được tính trên cơ sở
toàn bộ các hoá đơn, chứng từ bán sản phẩm hoặc sử dụng tác phẩm vi phạm quyền
sở hữu trí tuệ của nguyên đơn mà bị đơn đã thực hiện.
Toà án xác định lợi nhuận của bị đơn sau khi
khấu trừ toàn bộ các chi phí khỏi tổng doanh thu của bị đơn.
Chỉ được cộng khoản lợi nhuận mà bị đơn thu được
do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vào tổng thiệt hại vật chất
tính được thành tiền của nguyên đơn với điều kiện khoản lợi nhuận bị giảm sút
của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất.
b) Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở
hữu trí tuệ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ được
xác định theo một trong các cách như sau:
b.1) Là khoản tiền phải trả nếu người có quyền
và người xâm phạm tự do thoả thuận, ký kết hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ đó (phí bản quyền hợp lý, phí Lixăng). Hành vi
xâm phạm chính là hành vi sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
b.2) Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở
hữu trí tuệ giả định được xác định theo phương pháp xác định số tiền mà bên có
quyền (bên nguyên đơn) và bên được chuyển giao (bên bị đơn) có thể đã thoả
thuận vào thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm, nếu các bên tự nguyện thoả thuận
với nhau về khoản tiền đó;
b.3) Dựa trên giá chuyển giao quyền sử dụng đối
tượng sở hữu trí tuệ được áp dụng trong lĩnh vực tương ứng được nêu trong các
thông lệ chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trước đó (như các
vụ chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực tương ứng
trước đó đã được thanh toán hoặc bảo đảm trước khi xảy ra hành vi xâm phạm, mức
phí được nhiều người chấp nhận là hợp lý, được áp dụng thống nhất tại Việt Nam...).
c) Toà án chỉ áp dụng mức bồi thường thiệt hại
theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ (bồi thường
thiệt hại theo luật định) trong trường hợp không thể xác định được mức bồi
thường thiệt hại về vật chất của nguyên đơn theo các căn cứ quy định tại điểm a
và điểm b khoản 1 Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ.
c.1) Nguyên đơn phải chứng minh là việc xác định
mức bồi thường thiệt hại về vật chất trong trường hợp này không thể thực hiện
được hoặc chưa có đủ thị trường cho các hàng hoá hợp pháp để xác định thiệt hại
của nguyên đơn dựa trên mức giảm sút doanh thu bán hàng hoá đó trước và sau khi
xảy ra hành vi xâm phạm và yêu cầu Toà án áp dụng mức bồi thường thiệt hại theo
luật định. Tuy nhiên, nếu bị đơn chứng minh được rằng nguyên đơn không trung
thực trong việc chứng minh thiệt hại của họ vì nếu yêu cầu bồi thường theo quy
định tại các điểm a và b khoản 1 Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ thì mức bồi
thường sẽ thấp hơn mức bồi thường theo luật định, nếu nguyên đơn viện lý do để
được áp dụng mức bồi thường theo luật định và bị đơn chứng minh được mức thiệt
hại của nguyên đơn, thì Toà án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn mà có thể
chấp nhận yêu cầu của bị đơn để quyết định mức bồi thường thiệt hại.
c.2) Toà án quyết định mức bồi thường thiệt hại
về vật chất trong trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 205 của Luật sở
hữu trí tuệ với mức bồi thường tối thiểu không dưới năm triệu đồng và tối đa
không quá năm trăm triệu đồng. Để đảm bảo quyết định mức bồi thường hợp lý, phù
hợp với từng trường hợp cụ thể, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của người
bị thiệt hại, Toà án phải căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm
quyền tác giả, quyền liên quan cụ thể như sau:
- Hoàn cảnh, động cơ xâm phạm (xâm phạm do cố ý,
do vô ý, do bị khống chế, hoặc do bị lệ thuộc về vật chất, tinh thần, xâm phạm
lần đầu, tái phạm);
- Cách thực hiện hành vi xâm phạm (xâm phạm
riêng lẻ, có tổ chức, tự thực hiện hành vi xâm phạm, mua chuộc, lừa dối, cưỡng
ép người khác thực hiện hành vi xâm phạm);
- Phạm vi lãnh thổ, thời gian, khối lượng, quy
mô thực hiện hành vi xâm phạm (trên địa bàn một huyện của một tỉnh, nhiều huyện
của nhiều tỉnh khác nhau, thời gian dài hay ngắn, khối lượng lớn hay nhỏ, quy
mô thương mại...);
- ảnh hưởng, hậu quả của hành vi xâm phạm (ảnh
hưởng ở trong nước, quốc tế đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng của
chủ thể quyền; hậu quả về vật chất đối với chủ thể quyền).
c.3) Toà án phải căn cứ vào từng đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm để ấn định mức bồi thường thiệt hại về vật
chất theo mức nêu tại điểm c.2 tiểu mục 2.1 mục 2 này.
Nếu trong vụ tranh chấp có nhiều đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, thì mức bồi thường thiệt hại chung cho tất cả
các đối tượng đó cũng không được vượt quá mức 500 triệu đồng.
2.2. Toà án quyết định bồi thường thiệt hại về
tinh thần khi nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
đã gây thiệt hại về tinh thần cho mình. Trong trường hợp nguyên đơn không chứng
minh được có thiệt hại về tinh thần, thì Toà án không chấp nhận yêu cầu này của
họ. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, tuỳ mức độ tổn thất về tinh thần của chủ thể
quyền căn cứ vào tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những
tổn thất khác về tinh thần do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra cho
chủ thể quyền mà Toà án quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ 5 (năm)
triệu đồng đến 50 (năm mươi) triệu đồng.
2.3. Khi áp dụng quy định tại Điều 205 của Luật
sở hữu trí tuệ và hướng dẫn tại tiểu mục 2.1 mục 2 này của Thông tư liên tịch,
nếu trong vụ tranh chấp có nhiều đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ bị xâm
phạm, thì mức bồi thường thiệt hại được xác định riêng cho từng đối tượng đó.
Nếu đối với đối tượng này Toà án có thể xác định được mức bồi thường thiệt hại
về vật chất theo quy định tại các điểm a và b khoản 1 Điều 205 của Luật sở hữu
trí tuệ và đối với đối tượng kia Toà án không thể xác định được mức bồi thường
thiệt hại về vật chất theo quy định tại các điểm a và b khoản 1 Điều 205 của
Luật sở hữu trí tuệ, thì Toà án có thể áp dụng đồng thời các căn cứ quy định
tại khoản 1 Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ để xác định mức bồi thường thiệt
hại chung.
2.4. Về thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật
sư.
Trong tố tụng dân sự, theo quy định tại khoản 3
Điều 144 của Bộ luật tố tụng dân sự, chi phí cho luật sư do người yêu cầu chịu,
trừ trường hợp các bên đương sự có thoả thuận khác.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 205
của Luật sở hữu trí tuệ, thì chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu Toà
án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải thanh
toán chi phí hợp lý để thuê luật sư.
Chi phí hợp lý để thuê luật sư là chi phí thực
tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ phức tạp của vụ việc; kỹ năng,
trình độ của luật sư và lượng thời gian cần thiết để nghiên cứu vụ việc. Mức
chi phí bao gồm mức thù lao luật sư và chi phí đi lại, lưu trú cho luật sư. Mức
thù lao do luật sư thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý dựa
trên các căn cứ và phương thức tính thù lao quy định tại Điều 55 của Luật Luật
sư.
II. VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN
CẤP TẠM THỜI (CÁC ĐIỀU 206, 207 VÀ 208 CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ)
1. Về quyền yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 206 của Luật sở hữu trí tuệ).
1.1. Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu
cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi khởi kiện hoặc sau khi khởi
kiện vụ án dân sự về quyền sở hữu trí tuệ.
a) Nếu họ yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời theo quy định tại các điều từ Điều 206 đến Điều 210 của Luật sở hữu trí
tuệ, thì Toà án áp dụng các quy định tương ứng này của Luật sở hữu trí tuệ.
b) Nếu họ yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời mà trong Luật sở hữu trí tuệ không có quy định và biện pháp khẩn cấp tạm
thời đó được quy định tại Chương VIII của Bộ luật tố tụng dân sự, thì Toà án áp
dụng các quy định tương ứng của Bộ luật tố tụng dân sự. Khi chủ thể quyền sở
hữu trí tuệ yêu cầu Toà án áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời
quy định tại Điều 102 của Bộ luật tố tụng dân sự, thì Toà án phải xem xét các
biện pháp khẩn cấp tạm thời được yêu cầu áp dụng có liên quan đến lĩnh vực
quyền sở hữu trí tuệ hay không để áp dụng cho phù hợp.
1.2. Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu
cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các trường hợp quy định
tại khoản 1 Điều 206 của Luật sở hữu trí tuệ; cụ thể như sau:
a) Đang có nguy cơ xảy ra thiệt hại không thể
khắc phục được cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Thiệt hại là hậu quả tất yếu
của hành vi xâm phạm sắp xảy ra và khi thiệt hại xảy ra thì không thể khắc phục
được cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ nếu không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời đó.
b) Hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có
nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu huỷ nếu không được bảo vệ kịp thời.
- Tẩu tán là việc phân tán nhanh hàng hoá bị
nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ đi nhiều nơi để dấu.
- Tiêu huỷ là việc làm cho hàng hoá bị nghi ngờ
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ bị biến dạng hoặc bị mất hẳn đi, không để lại dấu vết.
1.3. Khi yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải nêu rõ yêu cầu của mình thuộc
trường hợp nào quy định tại khoản 1 Điều 206 của Luật sở hữu trí tuệ. Nếu đơn
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, đồng thời với việc nộp đơn khởi
kiện thì đơn khởi kiện phải được làm theo đúng quy định tại Điều 164 của Bộ
luật tố tụng dân sự.
1.4. Trong trường hợp đơn khởi kiện đã có các
nội dung để xác định việc thụ lý đơn khởi kiện và giải quyết vụ án là thuộc
thẩm quyền của mình, nhưng cần phải sửa đổi, bổ sung một số nội dung khác, thì
Toà án thụ lý giải quyết đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay
theo quy định tại khoản 3 Điều 117 của Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại
mục 6 Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27-4-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII “Các
biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc yêu cầu sửa đổi,
bổ sung đơn khởi kiện và thụ lý vụ án được thực hiện theo quy định tại Điều 169
và Điều 171 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời là Toà án có thẩm quyền thụ lý đơn khởi kiện và giải
quyết vụ án theo quy định tại các điều 33, 34, 35 và 36 của Bộ luật tố tụng dân
sự và hướng dẫn tại mục 1 Phần I của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày
31-3-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một
số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân
sự.
1.5. Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời theo yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ trước khi nghe ý
kiến của bên bị áp dụng biện pháp đó.
2. Về các biện pháp khẩn cấp
tạm thời (Điều 207 của Luật sở hữu trí tuệ).
2.1. Toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời quy định tại khoản 1 Điều 207 của Luật sở hữu trí tuệ và các biện pháp
khác theo quy định tại Điều 102 của Bộ luật tố tụng dân sự khi đương sự có yêu
cầu.
2.2. Đương sự có thể đồng thời yêu cầu Toà án áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 207 của Luật sở hữu trí tuệ
và tại Điều 102 của Bộ luật tố tụng dân sự hoặc chỉ yêu cầu Toà án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 207 của Luật sở hữu trí tuệ hoặc tại
Điều 102 của Bộ luật tố tụng dân sự;
2.3. Hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó bị
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời được lưu giữ, quản lý trong khi chờ
quyết định của Toà án về vụ tranh chấp.
Nguyên đơn có nghĩa vụ ứng trước chi phí lưu
giữ, bảo quản...hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh
doanh hàng hoá đó.
Khi quyết định về vụ tranh chấp theo yêu cầu của
nguyên đơn Toà án buộc bị đơn hoàn trả các chi phí đó như các chi phí quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 204 của Luật sở hữu trí tuệ và hướng dẫn tại tiểu mục
1.6 mục 1 Phần II này.
2.4. Hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó mà
đang ở trên tàu biển hoặc các phương tiện vận tải khác thì chỉ được áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các đối tượng này mà không áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời đối với phương tiện đó. Hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu,
phương tiện sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó được bốc dỡ ra khỏi phương tiện
vận chuyển và đưa vào nơi bảo quản.
3. Về biện pháp bảo đảm (Điều
208 của Luật sở hữu trí tuệ)
3.1. Tuỳ theo yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời mà người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải cung
cấp cho Toà án các chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 203 của Luật sở hữu trí
tuệ và khoản 1 Điều 117 của Bộ luật tố tụng dân sự để chứng minh cho sự cần
thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.
3.2. Thực hiện biện pháp bảo đảm.
Người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời không phân biệt theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ hay quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự, phải thực hiện biện pháp bảo đảm tương ứng. Tuỳ từng
trường hợp cụ thể, Toà án buộc người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời thực hiện biện pháp bảo đảm như sau:
a) Thực hiện biện pháp bảo đảm trong trường hợp
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 1 Điều 207 của
Luật sở hữu trí tuệ.
Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời phải nộp khoản bảo đảm bằng một trong các hình thức quy định tại khoản 2
Điều 208 của Luật sở hữu trí tuệ; cụ thể như sau:
a.1) Nộp khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hoá
cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Toà án yêu cầu người yêu cầu áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời phải nêu rõ số lượng, chủng loại hàng hoá cần áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời, dự kiến, ước tính giá trị hàng hoá đó để xác định giá
trị hàng hoá cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời làm cơ sở cho việc ấn định
khoản tiền bảo đảm.
Giá trị hàng hoá cần áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời được xác định tại thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ; dựa trên các căn cứ theo thứ tự ưu tiên quy định tại khoản 2 Điều 28 của
Nghị định số 105/2006/NĐ-CP.
Nếu không thể xác định được giá trị hàng hoá cần
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết như:
ước tính giá trị, thẩm định giá, định giá... mà vẫn không thể xác định được giá
trị hàng hoá đó), thì Toà án quyết định khoản tiền bảo đảm phải nộp tối thiểu
là hai mươi triệu đồng. Tuy nhiên cần lưu ý là điểm a khoản 2 Điều 208 của Luật
sở hữu trí tuệ chỉ quy định giới hạn mức tối thiểu của khoản bảo đảm đối với
trường hợp không thể xác định được giá trị của hàng hoá cần áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời mà không giới hạn mức tối đa đối với khoản bảo đảm. Do đó,
nếu qua dự kiến và tạm tính, xem xét các tình tiết của vụ án mà thấy rằng thiệt
hại thực tế có thể xảy ra và cao hơn mức bảo đảm tối thiểu là 20 triệu đồng,
thì Toà án có thể ấn định mức bảo đảm cao hơn mức tối thiểu 20 triệu đồng, để
người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp, tuỳ thuộc vào từng
trường hợp cụ thể.
a.2) Chứng từ bảo lãnh của ngân hàng hoặc tổ
chức tín dụng khác (không phân biệt chứng từ bảo lãnh của ngân hàng hoặc tổ
chức tín dụng trong nước hay nước ngoài có giá trị bằng 20% giá trị hàng hoá
cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc ít nhất bằng 20 triệu đồng). Chứng
từ bảo lãnh có thể là: thư bảo lãnh, hợp đồng bảo lãnh được xác lập theo quy
định của pháp luật Việt Nam ,
trừ trường hợp pháp luật Việt Nam
có quy định khác.
b) Thực hiện biện pháp bảo đảm trong trường hợp
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 207 của Luật sở
hữu trí tuệ.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 207 của Luật sở
hữu trí tuệ, chủ thể quyền có quyền yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, khi quyết định
áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ
luật tố tụng dân sự, thì Toà án căn cứ vào quy định tại Điều 120 của Bộ luật tố
tụng dân sự và hướng dẫn tại mục 8 của Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP
ngày 27-4-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự, xác định trường hợp cụ thể nào phải thực hiện biện pháp bảo đảm để buộc người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thực hiện biện pháp bảo đảm.
ngày 27-4-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự, xác định trường hợp cụ thể nào phải thực hiện biện pháp bảo đảm để buộc người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thực hiện biện pháp bảo đảm.
III. VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CHỨNG MINH CỦA ĐƯƠNG SỰ (ĐIỀU 203 CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ)
1. Các tranh chấp dân
sự về quyền sở hữu trí tuệ là một trong các loại tranh chấp dân sự thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án nhân dân theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Do đó, nguyên đơn, bị đơn có quyền và nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại
Điều 79 của Bộ luật tố tụng dân sự và quy định tại Điều 203 của Luật sở hữu trí
tuệ.
1.1. Do tính chất đặc thù của quyền sở hữu trí
tuệ, tuỳ từng loại tranh chấp và yêu cầu cụ thể, nguyên đơn thực hiện quyền và
nghĩa vụ chứng minh như sau:
a) Nguyên đơn chứng minh mình là chủ thể quyền
sở hữu trí tuệ bằng một trong các chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 203 của
Luật sở hữu trí tuệ và quy định tại Điều 24 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP.
b) Đối với trường hợp tranh chấp phát sinh do
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, để chứng minh quyền sở hữu trí tuệ của
mình bị xâm phạm, nguyên đơn phải cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định tại
khoản 3 Điều 203 của Luật sở hữu trí tuệ và quy định tại Điều 25 của Nghị định
số 105/2006/NĐ-CP.
số 105/2006/NĐ-CP.
c) Khi xem xét có hay không có hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ mà nguyên đơn khai trong đơn khởi kiện, Toà án căn cứ vào
quy định tại các điều 28, 35, 126, 127, 129 và 130 của Luật sở hữu trí tuệ quy
định về các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và quyền sở hữu
công nghiệp. Đồng thời phải áp dụng các quy định tại Chương II từ Điều 5 đến
Điều 15 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP để xác định yếu tố xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ. Do đặc thù của quyền sở hữu trí tuệ, trong một số trường hợp cá
nhân, tổ chức sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ mà không bị coi là xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ. Vì vậy, Toà án tuỳ đối tượng sở hữu trí tuệ cụ thể mà căn
cứ vào quy định tại các điều 25, 26, 32 và 33, các khoản 2 và 3 Điều 125, 133
và 134 của Luật sở hữu trí tuệ để xác định có hay không có hành vi xâm phạm.
1.2. Theo quy định tại khoản 4 Điều 203 của Luật
sở hữu trí tuệ, thì đối với vụ kiện về xâm phạm quyền đối với sáng chế là quy
trình sản xuất sản phẩm, thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về bị đơn. Bị đơn phải
chứng minh sản phẩm của mình được sản xuất theo một quy trình khác với quy
trình được bảo hộ trong các trường hợp quy định tại các điểm a và b khoản 4
Điều 203 của Luật sở hữu trí tuệ. Toà án yêu cầu bị đơn xuất trình chứng cứ
chứng minh họ không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế của nguyên
đơn.
2. Nguyên đơn có quyền
yêu cầu Toà án ra quyết định buộc bên kiểm soát chứng cứ phải đưa ra chứng cứ
đó theo quy định tại khoản 5 Điều 203 của Luật sở hữu trí tuệ và quy định tại
Điều 94 của Bộ luật tố tụng dân sự
và hướng dẫn tại mục 8 Phần IV của Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP
ngày 17-9-2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “Chứng minh và
chứng cứ”.
và hướng dẫn tại mục 8 Phần IV của Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP
ngày 17-9-2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “Chứng minh và
chứng cứ”.
3. Nguyên đơn phải
chứng minh thiệt hại đã xảy ra đối với mình; phải xuất trình các chứng cứ chứng
minh thiệt hại thực tế đã xảy ra (các loại thiệt hại, trong mỗi loại thiệt hại
bao gồm các tổn thất gì....) và nêu cụ thể các căn cứ xác định mức bồi thường
thiệt hại theo quy định tại Điều 205 của Luật sở hữu trí tuệ.
IV. QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN ÁP
DỤNG CÁC BIỆN PHÁP DÂN SỰ (ĐIỀU 202 CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ)
Toà án áp dụng các biện pháp dân sự theo quy
định tại Điều 202 của Luật sở hữu trí tuệ để giải quyết các vụ án dân sự về
quyền sở hữu trí tuệ.
Tuỳ trường hợp cụ thể Toà án có thể áp dụng một
hoặc nhiều hoặc tất cả các biện pháp dân sự đồng thời cùng lúc trong quá trình
giải quyết một vụ án dân sự về quyền sở hữu trí tuệ.
1. Buộc chấm dứt hành vi xâm
phạm
1.1. Theo yêu cầu của người khởi kiện, Toà án
quyết định buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ chấm dứt ngay
hành vi xâm phạm (ví dụ: buộc người có hành vi xâm phạm quyền tác giả chấm dứt
việc sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả; buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
chấm dứt việc sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá,
dịch vụ trùng với hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu
đó...).
1.2. Toà án có thể quyết định buộc người có hành
vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ chấm dứt hành vi xâm phạm trong bản án hoặc
trong quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều
206, khoản 2 Điều 207 của Luật sở hữu trí tuệ và quy định tại khoản 12 Điều 102
và Điều 115 của Bộ luật tố tụng dân sự.
1.3. Trong bản án, quyết định, Toà án phải nêu
cụ thể các quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm và các hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ. Đồng thời, Toà án cũng phải quy định rõ những việc người có hành
vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải thực hiện và không được thực hiện để thi
hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án.
1.4. Theo quy định tại khoản 1 Điều 123 của Bộ
luật tố tụng dân sự, thì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu
lực thi hành ngay.
Do đó, nếu người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ khiếu nại quyết định đó, thì trong thời hạn khiếu nại, giải quyết khiếu nại theo quy định tại các điều 124 và 125 của Bộ luật tố tụng dân sự, họ vẫn phải thi hành quyết định đó.
Do đó, nếu người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ khiếu nại quyết định đó, thì trong thời hạn khiếu nại, giải quyết khiếu nại theo quy định tại các điều 124 và 125 của Bộ luật tố tụng dân sự, họ vẫn phải thi hành quyết định đó.
Đối với trường hợp Toà án quyết định trong bản
án việc buộc chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mà bản án đó bị
kháng cáo, kháng nghị, thì theo quy định tại khoản 1 Điều 254 của Bộ luật tố
tụng dân sự “Những phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị
thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành
ngay”.
Do đó, cần căn cứ vào quy định cụ thể của văn
bản quy phạm pháp luật cho thi hành ngay phần bản án, quyết định sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị và quy định nêu trên của Bộ luật tố tụng dân sự để tuyên
trong bản án, quyết định là: “Quyết định buộc chấm dứt hành vi xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ được thi hành ngay mặc dù bị kháng cáo, kháng nghị”.
2. Buộc xin lỗi, cải chính
công khai
2.1. Toà án quyết định trong bản án, quyết định
về việc buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải xin lỗi, cải
chính công khai nhằm khôi phục danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng... cho
chủ thể quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm.
Ví dụ: Người có hành vi xâm phạm quyền tác giả
đã sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm làm cho công chúng hiểu lầm về tác
giả gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Việc buộc xin lỗi, cải chính công khai nhằm mục đích
bảo vệ quyền nhân thân của tác giả quy định tại khoản 4 Điều 19 của Luật sở hữu
trí tuệ (bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm) và khôi phục danh dự, uy tín cho tác
giả.
Trong trường hợp các đương sự thoả thuận được
với nhau về nội dung, cách thức xin lỗi, cải chính công khai và chi phí thực
hiện việc xin lỗi, cải chính đó mà thoả thuận đó không trái pháp luật, đạo đức
xã hội, thì Toà án công nhận sự thoả thuận của họ.
2.2. Trong trường hợp các bên không thoả thuận
được với nhau về nội dung, cách thức thực hiện việc xin lỗi, cải chính công
khai và chi phí thực hiện, thì Toà án căn cứ vào tính chất hành vi xâm phạm và
mức độ, hậu quả do hành vi đó gây ra quyết định về nội dung, thời lượng xin
lỗi, cải chính công khai và chi phí thực hiện. Việc xin lỗi, cải chính công
khai có thể được thực hiện trực tiếp tại nơi có địa chỉ chính của người bị
thiệt hại hoặc đăng công khai trên báo hàng ngày của cơ quan trung ương, báo
địa phương nơi có địa chỉ chính của người bị thiệt hại trong ba số liên tiếp.
3. Buộc thực hiện nghĩa vụ
dân sự
Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự được Toà án quyết
định áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nghĩa vụ đối với chủ thể quyền sở
hữu trí tuệ. [không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã thoả thuận
theo hợp đồng và phải chịu trách nhiệm dân sự đối với chủ thể quyền sở hữu trí
tuệ (người có quyền)].
Khi áp dụng biện pháp này cần căn cứ vào các quy
định tương ứng tại các mục 2 và 3 Chương XVII, Phần thứ ba của Bộ luật dân sự
năm 2005.
4. Buộc bồi thường thiệt hại
4.1. Người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ mà gây thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần cho chủ thể quyền sở
hữu trí tuệ, thì phải bồi thường.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người có
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được xác định theo các căn cứ quy định
tại khoản 1 Điều 604 của Bộ luật dân sự và hướng dẫn tại mục 1 Phần I của Nghị
quyết
số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08-7-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08-7-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
4.2. Do Bộ luật dân sự có quy định về nguyên tắc
bồi thường thiệt hại, xác định thiệt hại và cách thức bồi thường thiệt hại khác
với quy định của Luật sở hữu trí tuệ; do đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 5
của Luật sở hữu trí tuệ khi giải quyết yêu cầu về bồi thường thiệt hại phải áp
dụng các quy định tại các điều 204 và 205 của Luật sở hữu trí tuệ, các điều 16,
17, 18, 19 và 20 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP và hướng dẫn tại mục I Phần A
của Thông tư liên tịch này.
5. Buộc tiêu huỷ hoặc
phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá,
nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh
doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng
đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
5.1. Toà án xem xét quyết định buộc tiêu huỷ
hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với
hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện nêu trên mà không phụ thuộc vào
việc chủ thể quyền có yêu cầu hay không có yêu cầu.
5.2. Việc buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc
đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại phải căn cứ vào quy định tại
khoản 5 Điều 202 của Luật sở hữu trí tuệ, các điều 30 và 31 của Nghị định số
105/2006/NĐ-CP.
Ví dụ: Công ty X. sử dụng trái phép nhãn hiệu mì
chính “AJINOMOTO” của Công ty A. đang được người tiêu dùng ưa chuộng trên thị
trường để gắn vào sản phẩm mì chính của mình để bán trên thị trường. Công ty A.
đã khởi kiện Công ty X. yêu cầu Toà án buộc Công ty X. phải chấm dứt hành vi sử
dụng trái phép nhãn hiệu “AJINOMOTO”, tiêu huỷ số nhãn hiệu đã được in ấn nhưng
chưa sử dụng và xử lý số mì chính mang nhãn hiệu “AJINOMOTO” giả mạo. Toà án
căn cứ vào quy định tại khoản 5 Điều 202 của Luật sở hữu trí tuệ và Điều 30 của
Nghị định số 105/2006/NĐ-CP quyết định buộc Công ty X. tiêu huỷ số nhãn hiệu
giả mạo bị thu giữ, loại bỏ nhãn hiệu “AJINOMOTO” ra khỏi hàng hoá mì chính và
quyết định phân phối số mì chính đó cho Cơ sở nuôi dưỡng trẻ em mồ côi của huyện
B. sử dụng vì mục đích nhân đạo.
5.3. Khi quyết định buộc tiêu huỷ hàng hoá,
nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh
doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, Toà án phải quyết định trách
nhiệm của người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chịu chi phí cho
việc tiêu huỷ đó.
C. PHỐI HỢP TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Trong quá trình giải quyết các tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Toà án, Viện kiểm sát với
Cục Bản quyền tác giả (Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch), các Sở Văn hoá - Thông
tin, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), các Sở Khoa học và Công
nghệ nơi thụ lý vụ án, Trung tâm Internet Việt Nam (Bộ Thông tin và Truyền
thông) để thực hiện các việc sau đây:
1. Khi có vấn đề
chuyên môn trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ mà Toà án đã có văn bản yêu cầu
trao đổi ý kiến, thì Cục Bản quyền tác giả, Sở Văn hoá - Thông tin, Cục Sở hữu
trí tuệ, Sở Khoa học và Công nghệ, Trung tâm Internet Việt Nam có trách nhiệm
trả lời về các vấn đề mà Toà án yêu cầu.
2. Khi tiến hành việc
truy tố, xét xử các vụ án hình sự mà thấy có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ, Viện kiểm sát, Toà án cần thông báo cho Cục Bản quyền tác giả, Sở Văn
hoá-Thông tin, Cục Sở hữu trí tuệ, Sở Khoa học và Công nghệ, Trung tâm Internet
Việt Nam để các cơ quan này thực hiện theo dõi, thống kê tình hình hoạt động
kết quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Toà án nhân dân trong phạm vi chức năng
của mình.
3. Trong quá trình xử
lý xâm phạm, giải quyết tranh chấp, nếu thấy hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự, thì các cơ
quan chức năng thông báo và chuyển tài liệu có liên quan cho Viện kiểm sát nhân
dân có thẩm quyền xem xét, quyết định việc xử lý về hình sự.
D. HIỆU LỰC THI HÀNH CỦA
THÔNG TƯ
1. Thông tư này có hiệu lực
sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Thông tư này thay thế Thông tư liên tịch số
01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT ngày 05-12-2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Văn hoá-Thông tin hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Bộ luật dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến
quyền tác giả tại Toà án
nhân dân.
nhân dân.
2. Các vụ án trước đây đã
được giải quyết theo đúng các quy định của pháp luật mà bản án, quyết định của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật thì không áp dụng hướng dẫn tại Thông tư này để
kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, trừ trường hợp có những căn cứ khác.
3. Đối với những vụ án về
tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ phát sinh trước ngày 01-01-2006 (ngày Bộ luật
dân sự năm 2005 có hiệu lực), thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 1995,
các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật dân sự
năm 1995 về sở hữu trí tuệ để giải quyết.
4. Đối với những vụ án về
tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ phát sinh
từ ngày 01-01-2006 đến trước ngày 01-7-2006 (ngày Luật sở hữu trí tuệ có hiệu lực), thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về sở hữu trí tuệ để giải quyết.
từ ngày 01-01-2006 đến trước ngày 01-7-2006 (ngày Luật sở hữu trí tuệ có hiệu lực), thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về sở hữu trí tuệ để giải quyết.
Trong quá trình áp dụng hướng dẫn tại Thông tư
này, nếu có vướng mắc hoặc phát sinh những vấn đề mới, thì Toà án các cấp cần
báo cáo bằng văn bản để Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tư pháp có
sự giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp thời.
KT. CHÁNH ÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO PHÓ CHÁNH ÁN Đặng Quang Phương |
KT. VIỆN
TRƯỞNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO PHÓ VIỆN TRƯỞNG Khuất Văn Nga |
KT. BỘ
TRƯỞNG
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THỨ TRƯỞNG Trần Chiến Thắng |
KT. BỘ
TRƯỞNG
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỨ TRƯỞNG Nguyễn Quân |
KT. BỘ
TRƯỞNG
BỘ TƯ PHÁP THỨ TRƯỞNG Đinh Trung Tụng |