Toàn văn Bộ Luật hình sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2009 - Phần chung
Bộ Luật Hình Sự
Của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Số 15/1999/QH10
Sửa đổi bổ sung 2009/QH12 Ngày
19/6/2009
LỜI NÓI ĐẦU
Pháp luật hình
sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần duy trì trật
tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống
trong một môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn
cao. Đồng thời, pháp luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây
cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Bộ luật hình sự
này được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát huy những nguyên tắc, chế định
pháp luật hình sự của nước ta, nhất là của Bộ luật hình sự năm 1985, cũng như
những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
trong nhiều thập kỷ qua của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bộ luật hình sự
thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm
và thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục, cảm hoá, cải tạo người phạm tội trở
thành người lương thiện; qua đó, bồi dưỡng cho mọi công dân tinh thần, ý thức
làm chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng ngừa và
chống tội phạm.
Thi hành nghiêm
chỉnh Bộ luật hình sự là nhiệm vụ chung của tất cả các cơ quan, tổ chức và toàn
thể nhân dân.
PHẦN CHUNG
CHƯƠNG I
ĐIỀU KHOẢN CƠ BẢN
Điều
1. Nhiệm vụ của Bộ luật hình sự
Bộ luật hình sự
có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ
quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân
theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Để thực hiện
nhiệm vụ đó, Bộ luật quy định tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội.
Điều
2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Chỉ người nào
phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình
sự.
Điều
3. Nguyên tắc xử lý
1. Mọi hành vi
phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng
pháp luật.
2. Mọi người
phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội.
Nghiêm trị
người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm
nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ
đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm
trọng.
Khoan hồng đối
với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc
tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
3. Đối với
người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát,
giáo dục.
4. Đối với
người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao
động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì
xét để giảm việc chấp hành hình phạt.
5. Người đã
chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hoà
nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích.
Điều
4. Trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
1. Các cơ quan
Công an, Kiểm sát, Toà án, Tư pháp, Thanh tra và các cơ quan hữu quan khác có
trách nhiệm thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời hướng dẫn,
giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, công dân đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng.
2. Các cơ quan,
tổ chức có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc quyền quản lý của mình nâng cao
cảnh giác, ý thức bảo vệ pháp luật và tuân theo pháp luật, tôn trọng các quy
tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên nhân
và điều kiện gây ra tội phạm trong cơ quan, tổ chức của mình.
3. Mọi công dân
có nghĩa vụ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
CHƯƠNG II
HIỆU LỰC CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
Điều
5. Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Bộ luật hình
sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Đối với
người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và
miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc
tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại
giao.
Điều
6. Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Công dân
Việt Nam phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo Bộ luật này.
Quy định này
cũng được áp dụng đối với người không quốc tịch thường trú ở nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Người nước
ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự Việt Nam trong những
trường hợp được quy định trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Điều
7. Hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian
1. Điều luật
được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi
hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện.
2. Điều luật
quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới
hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt,
giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm
tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi
điều luật đó có hiệu lực thi hành.
3. Điều luật
xoá bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình
phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo,
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các
quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm
tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
CHƯƠNG III
TỘI PHẠM
Điều
8. Khái niệm tội phạm
1. Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
2. Căn cứ vào
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ
luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Tội phạm ít
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội
phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với
tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại
rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến
mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc
biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên
mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
4. Những hành
vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không
đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.
Điều
9. Cố ý phạm tội
Cố ý phạm tội
là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm
tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả
của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra;
2. Người phạm
tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả
của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc
cho hậu quả xảy ra.
Điều
10. Vô ý phạm tội
Vô ý phạm tội
là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm
tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội,
nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
2. Người phạm
tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã
hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Điều
11. Sự kiện bất ngờ
Người thực hiện
hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường
hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi
đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều
12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ
16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ
14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Điều
13. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
1. Người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một
bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình,
thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh.
2. Người phạm
tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào tình trạng quy
định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện pháp
bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm
hình sự.
Điều
14. Phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác
Người phạm tội
trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải
chịu trách nhiệm hình sự.
Điều
15. Phòng vệ chính đáng
1. Phòng vệ
chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức,
bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại
một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính
đáng không phải là tội phạm.
2. Vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết,
không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành
vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều
16. Tình thế cấp thiết
1. Tình thế cấp
thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe doạ lợi
ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của
người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt
hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây
thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
2. Trong trường
hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người
gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều
17. Chuẩn bị phạm tội
Chuẩn bị phạm
tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác
để thực hiện tội phạm.
Người chuẩn bị
phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện.
Điều
18. Phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa
đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những
nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Người phạm tội
chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.
Điều
19. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không
có gì ngăn cản.
Người tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm;
nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì
người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Điều
20. Đồng phạm
1. Đồng phạm là
trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
2. Người tổ
chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng
phạm.
Người thực hành
là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức
là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục
là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức
là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội
phạm.
3. Phạm tội có
tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng
thực hiện tội phạm.
Điều
21. Che giấu tội phạm
Người nào không
hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện, đã che giấu người
phạm tội, các dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc
phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định.
Điều
22. Không tố giác tội phạm
1. Người nào
biết rõ tội phạm đang đựơc chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện
mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội
phạm trong những trường hợp quy định tại Điều 313 của Bộ luật này.
2. Người không
tố giác là ông, bà , cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của
người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác
các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm
trọng quy định tại Điều 313 của Bộ luật này.
CHƯƠNG IV
THỜI HIỆU TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ.
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
Điều
23. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
1. Thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết
thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) Năm năm đối
với các tội phạm ít nghiêm trọng;
b) Mười năm đối
với các tội phạm nghiêm trọng;
c) Mười lăm năm
đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
d) Hai mươi năm
đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu
trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này người phạm tội lại phạm tội mới mà
Bộ luật quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm
tù, thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính
lại kể từ ngày phạm tội mới.
Nếu trong thời
hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã, thì thời
gian trốn tránh không được tính và thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự
thú hoặc bị bắt giữ.
Điều
24. Không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Không áp dụng
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 23 của Bộ luật này đối
với các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này.
Điều
25. Miễn trách nhiệm hình sự
1. Người phạm
tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét
xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không
còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
2. Trong trường
hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ
sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng
hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, thì cũng có thể được miễn trách
nhiệm hình sự.
3. Người phạm
tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá.
CHƯƠNG V
HÌNH PHẠT
Điều
26. Khái niệm hình phạt
Hình phạt là
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của người phạm tội.
Hình phạt được
quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án quyết định.
Điều
27. Mục đích của hình phạt
Hình phạt không
chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho
xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ
nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Điều
28. Các hình phạt
Hình phạt bao
gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
1. Hình phạt
chính bao gồm:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền;
c) Cải tạo
không giam giữ;
d) Trục xuất;
đ) Tù có thời
hạn;
e) Tù chung
thân;
g) Tử hình.
2. Hình phạt bổ
sung bao gồm:
a) Cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
b) Cấm cư trú;
c) Quản chế;
d) Tước một số
quyền công dân;
đ) Tịch thu tài
sản;
e) Phạt tiền,
khi không áp dụng là hình phạt chính;
g) Trục xuất,
khi không áp dụng là hình phạt chính.
3. Đối với mỗi
tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp
dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.
Điều
29. Cảnh cáo
Cảnh cáo được
áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ,
nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.
Điều
30. Phạt tiền
1. Phạt tiền
được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một
số tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
2. Phạt tiền
được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm các tội về tham nhũng, ma
tuý hoặc những tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
3. Mức phạt
tiền được quyết định tuỳ theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm
được thực hiện, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự
biến động giá cả, nhưng không được thấp hơn một triệu đồng.
4. Tiền phạt có
thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Toà án quyết định trong
bản án.
Điều
31. Cải tạo không giam giữ
1. Cải tạo
không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với người phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi
làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết
phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.
Nếu người bị
kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào
thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm
giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ.
2. Tòa án giao
người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc
hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Gia
đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền
địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
3. Người bị kết
án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ
và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Trong
trường hợp đặc biệt, Toà án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải
ghi rõ lý do trong bản án.
Điều
32. Trục xuất
Trục xuất là
buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Trục xuất được
Toà án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong từng trường hợp
cụ thể.
Điều
33. Tù có thời hạn
Tù có thời hạn
là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một
thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu
là ba tháng, mức tối đa là hai mươi năm.
Thời gian tạm
giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm
giữ, tạm giam bằng một ngày tù.
Điều
34. Tù chung thân
Tù chung thân
là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình.
Không áp dụng
tù chung thân đối với người chưa thành niên phạm tội.
Điều
35. Tử hình
Tử hình là hình
phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Không áp dụng
hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có
thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét
xử.
Không thi hành
án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân.
Trong trường
hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình chuyển thành tù
chung thân.
Điều
36. Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
Cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng khi xét thấy
nếu để người bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó, thì
có thể gây nguy hại cho xã hội.
Thời hạn cấm là
từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản
án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.
Điều
37. Cấm cư trú
Cấm cư trú là
buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú và thường trú ở một số địa
phương nhất định.
Thời hạn cấm cư
trú là từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
Điều
38. Quản chế
Quản chế là
buộc người bị kết án phạt tù phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa
phương nhất định, có sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa
phương. Trong thời gian quản chế, người bị kết án không được tự ý ra khỏi nơi
cư trú, bị tước một số quyền công dân theo Điều 39 của Bộ luật này và bị cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Quản chế được
áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, người tái phạm nguy
hiểm hoặc trong những trường hợp khác do Bộ luật này quy định.
Thời hạn quản
chế là từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
Điều
39. Tước một số quyền công dân
1. Công dân
Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm khác
trong những trường hợp do Bộ luật này quy định, thì bị tước một hoặc một số
quyền công dân sau đây:
a) Quyền ứng
cử, quyền bầu cử đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước;
b) Quyền làm
việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân
dân.
2. Thời hạn
tước một số quyền công dân là từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong
hình phạt tù hoặc kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật trong trường hợp
người bị kết án được hưởng án treo.
Điều
40. Tịch thu tài sản
Tịch thu tài
sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án sung
quỹ nhà nước. Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội
nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng trong trường
hợp do Bộ luật này quy định.
Khi tịch thu
toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh
sống.
CHƯƠNG VI
CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP
Điều
41. Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
1. Việc tịch
thu, sung quỹ nhà nước được áp dụng đối với:
a) Công cụ,
phương tiện dùng vào việc phạm tội;
b) Vật hoặc
tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có;
c) Vật thuộc
loại Nhà nước cấm lưu hành.
2. Đối với vật,
tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà
trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp.
3. Vật, tiền
thuộc tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm
tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu, sung quỹ nhà
nước.
Điều
42. Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi
1. Người phạm
tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp
pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành
vi phạm tội gây ra.
2. Trong trường
hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi
thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.
Điều
43. Bắt buộc chữa bệnh
1. Đối với người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại khỏan 1
Điều 13 của Bộ luật này, thì tùy theo giai đoạn tố tụng, Viện kiểm sát hoặc Tòa
án căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, có thể quyết định đưa họ
vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh; nếu thấy không cần
thiết phải đưa vào một cơ sở điều trị chuyên khoa, thì có thể giao cho gia đình
hoặc người giám hộ trông nom dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
2. Đối với
người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết
án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của mình, thì căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, Tòa án có thể
quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau
khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Đối với
người đang chấp hành hình phạt mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám
định pháp y, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa
để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó phải tiếp tục chấp hành hình
phạt, nếu không có lý do khác để miễn chấp hành hình phạt.
Điều
44. Thời gian bắt buộc chữa bệnh
Căn cứ vào kết
luận của cơ sở điều trị, nếu người bị bắt buộc chữa bệnh quy định tại Điều 43
của Bộ luật này đã khỏi bệnh, thì tuỳ theo giai đoạn tố tụng, Viện kiểm sát
hoặc Tòa án xét và quyết định đình chỉ việc thi hành biện pháp này.
Thời gian bắt
buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
CHƯƠNG VII
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
Điều
45. Căn cứ quyết định hình phạt
Khi quyết định
hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,
các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Điều
46. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1. Các tình
tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm
tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm
tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội
trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội
trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội
trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người
bị hại hoặc người khác gây ra;
e) Phạm tội vì
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
g) Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
h) Phạm tội lần
đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
i) Phạm tội vì
bị người khác đe doạ, cưỡng bức;
k) Phạm tội do
lạc hậu;
l) Người phạm
tội là phụ nữ có thai;
m) Người phạm
tội là người già;
n) Người phạm
tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình;
o) Người phạm
tội tự thú;
p) Người phạm
tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
q) Người phạm
tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm;
r) Người phạm
tội đã lập công chuộc tội;
s) Người phạm
tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc
công tác.
2. Khi quyết
định hình phạt, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ,
nhưng phải ghi rõ trong bản án.
3. Các tình
tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định
khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Điều
47. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật
Khi có ít nhất
hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà án có
thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều
luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều
luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình
phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định
một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Điều
48. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
1. Chỉ các tình
tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
a) Phạm tội có
tổ chức;
b) Phạm tội có
tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Phạm tội có
tính chất côn đồ;
đ) Phạm tội vì
động cơ đê hèn;
e) Cố tình thực
hiện tội phạm đến cùng;
g) Phạm tội
nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm;
h) Phạm tội đối
với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ
được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc
các mặt khác;
i) Xâm phạm tài
sản của Nhà nước;
k) Phạm tội gây
hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
l) Lợi dụng
hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó
khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
m) Dùng thủ
đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy
hại cho nhiều người;
n) Xúi giục
người chưa thành niên phạm tội;
o) Có hành động
xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.
2. Những tình
tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình
tiết tăng nặng.
Điều
49. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm
1. Tái phạm là
trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc
phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường
hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án
về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án
tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm,
chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý.
Điều
50. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Khi xét xử cùng
một lần một người phạm nhiều tội, Toà án quyết định hình phạt đối với từng tội,
sau đó tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:
1. Đối với hình
phạt chính :
a) Nếu các hình
phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì
các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không
được vượt quá ba năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, ba mươi năm đối
với hình phạt tù có thời hạn;
b) Nếu các hình
phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo
không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ ba ngày cải tạo
không giam giữ được chuyển đổi thành một ngày tù để tổng hợp thành hình phạt
chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;
c) Nếu hình
phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt
chung là tù chung thân;
d) Nếu hình
phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung
là tử hình;
đ) Phạt tiền
không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại
thành hình phạt chung;
e) Trục xuất
không tổng hợp với các loại hình phạt khác.
2. Đối với hình
phạt bổ sung:
a) Nếu các hình
phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn
do Bộ luật này quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền
thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;
b) Nếu các hình
phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình
phạt đã tuyên.
Điều
51. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
1. Trong trường
hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm
trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị
xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 50 của Bộ luật
này.
Thời gian đã
chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt
chung.
2. Khi xét xử
một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, Tòa án quyết định
hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành
của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 50 của
Bộ luật này.
3. Trong trường
hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình
phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Toà án ra quyết định tổng
hợp các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Điều
52. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
1. Đối với hành
vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt đựơc quyết định
theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những
tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.
2. Đối với
trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt
cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng
là không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá
một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
3. Đối với trường
hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao
nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này
trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt
không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.
Điều
53. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm
Khi quyết định
hình phạt đối với những người đồng phạm, Toà án phải xét đến tính chất của đồng
phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.
Các tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm
nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.
Điều
54. Miễn hình phạt
Người phạm tội
có thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm
nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc
biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.
CHƯƠNG VIII
THỜI HIỆU THI HÀNH BẢN ÁN, MIỄN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT, GIẢM THỜI HẠN CHẤP
HÀNH HÌNH PHẠT
Điều
55. Thời hiệu thi hành bản án
1. Thời hiệu
thi hành bản án hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn
đó người bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên.
2. Thời hiệu
thi hành bản án hình sự được quy định như sau:
a) Năm năm đối
với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt tù từ ba
năm trở xuống;
b) Mười năm đối
với các trường hợp xử phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm;
c) Mười lăm năm
đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên mười lăm năm đến ba mươi năm.
3. Thời hiệu
thi hành bản án hình sự được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu
trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này người bị kết án lại phạm tội mới,
thì thời gian đã qua không đựơc tính và thời hiệu tính lại kể từ ngày phạm tội
mới.
Nếu trong thời
hạn quy định tại khoản 2 Điều này người bị kết án cố tình trốn tránh và đã có
lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu tính lại kể
từ ngày người đó ra trình diện hoặc bị bắt giữ.
4. Việc áp dụng
thời hiệu đối với các trường hợp xử phạt tù chung thân hoặc tử hình, sau khi đã
qua thời hạn mười lăm năm, do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo
đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong trường hợp không
cho áp dụng thời hiệu thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân, tù
chung thân được chuyển thành tù ba mươi năm.
Điều
56. Không áp dụng thời hiệu thi hành bản án
Không áp dụng
thời hiệu thi hành bản án đối với các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV
của Bộ luật này.
Điều
57. Miễn chấp hành hình phạt
1. Đối với
người bị kết án cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, chưa chấp hành hình
phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và nếu người đó không còn nguy
hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Tòa án có
thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.
2. Người bị kết
án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.
3. Đối với
người bị kết án về tội ít nghiêm trọng đã được hoãn chấp hành hình phạt theo
quy định tại Điều 61 của Bộ luật này, nếu trong thời gian được hoãn đã lập
công, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Toà án có thể quyết định
miễn chấp hành hình phạt.
4. Đối với
người bị kết án phạt tù về tội ít nghiêm trọng đã được tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này, nếu trong thời gian được
tạm đình chỉ mà đã lập công, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát,
Toà án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
5. Người bị
phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình
phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của chính quyền địa phương nơi người đó
chấp hành hình phạt, Toà án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn
lại.
Điều
58. Giảm mức hình phạt đã tuyên
1. Người bị kết
án cải tạo không giam giữ, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất
định và có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính
quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục, Tòa án có
thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Người bị kết án
phạt tù, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định và có nhiều
tiến bộ, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù, Toà án có thể quyết
định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Thời gian đã
chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với
hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù từ ba mươi năm trở xuống, mười
hai năm đối với tù chung thân.
2. Người bị kết
án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào
hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn
hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại
hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Toà án có
thể quyết định miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại.
3. Một người có
thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai mức
hình phạt đã tuyên. Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống ba
mươi năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp
hành hình phạt là hai mươi năm.
4. Đối với
người đã được giảm một phần hình phạt mà lại phạm tội mới nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Toà án chỉ xét giảm lần đầu sau
khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc hai mươi
năm nếu là tù chung thân.
Điều
59. Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt
Người bị kết án
có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc
bệnh hiểm nghèo, thì Toà án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức
cao hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 58 của Bộ luật này.
Điều
60. Án treo
1. Khi xử phạt
tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết
giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án
cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
2. Trong thời
gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi
người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám
sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan,
tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
3. Người được
hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định tại Điều 30
và Điều 36 của Bộ luật này.
4. Người được
hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều
tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo
dục, Toà án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
5. Đối với
người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án
quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình
phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật này.
Điều 61. Hoãn
chấp hành hình phạt tù
1. Người bị xử
phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:
a) Bị bệnh nặng
được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;
b) Phụ nữ có
thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36
tháng tuổi;
c) Là người lao
động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ
gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến một năm, trừ trường hợp người đó bị kết án
về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng;
d) Bị kết án về
tội ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến một năm.
2. Trong thời
gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt
lại phạm tội mới, thì Toà án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và
tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật
này.
Điều 62. Tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù
1. Người đang
chấp hành hình phạt tù mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1
Điều 61 của Bộ luật này, thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
2. Thời gian
tạm đình chỉ không được tính vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
CHƯƠNG IX
XÓA ÁN TÍCH
XÓA ÁN TÍCH
Điều 63. Xoá án
tích
Người bị kết án
được xoá án tích theo quy định tại các điều từ Điều 64 đến Điều 67 của Bộ luật
này.
Người được xoá
án tích coi như chưa bị kết án và được Toà án cấp giấy chứng nhận.
Điều 64. Đương
nhiên được xoá án tích
Những người sau
đây đương nhiên được xoá án tích:
1. Người được
miễn hình phạt.
2. Người bị kết
án không phải về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này,
nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án
người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a) Một năm
trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt
tù nhưng được hưởng án treo;
b) Ba năm trong
trong trường hợp hình phạt là tù đến ba năm;
c) Năm năm
trong trường hợp hình phạt là tù từ trên ba năm đến mười lăm năm;
d) Bảy năm
trong trường hợp hình phạt là tù từ trên mười lăm năm.
Điều 65. Xoá án
tích theo quyết định của Toà án
1. Toà án quyết
định việc xoá án tích đối với những người đã bị kết án về các tội quy định tại
Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này, căn cứ vào tính chất của tội phạm đã
được thực hiện, nhân thân, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của
người bị kết án trong các trường hợp sau đây:
a) Đã bị phạt
tù đến ba năm mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm, kể từ khi chấp hành
xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;
b) Đã bị phạt
tù từ trên ba năm đến mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn bảy
năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;
c) Đã bị phạt
tù trên mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn mười năm, kể từ khi
chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
2. Người bị Tòa
án bác đơn xin xóa án tích lần đầu phải chờ một năm sau mới được xin xóa án
tích; nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì phải sau hai năm mới được xin xóa
án tích.
Điều 66. Xoá án
tích trong trường hợp đặc biệt
Trong trường
hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ
quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó
thường trú đề nghị, thì có thể được Toà án xoá án tích nếu người đó đã bảo đảm
được ít nhất một phần ba thời hạn quy định.
Điều 67. Cách
tính thời hạn để xoá án tích
1. Thời hạn để
xoá án tích quy định tại Điều 64 và Điều 65 của Bộ luật này căn cứ vào hình
phạt chính đã tuyên.
2. Nếu chưa
được xoá án tích mà phạm tội mới, thì thời hạn để xoá án tích cũ tính từ ngày
chấp hành xong bản án mới.
3. Việc chấp
hành xong bản án bao gồm việc chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung
và các quyết định khác của bản án.
4. Người được
miễn chấp hành phần hình phạt còn lại cũng được coi như đã chấp hành xong hình
phạt.
CHƯƠNG X
NHỮNG QUY ĐỊNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
NHỮNG QUY ĐỊNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
Điều 68. Áp
dụng Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Người chưa
thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của
Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này.
Điều 69. Nguyên
tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội
1. Việc xử lý
người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong mọi
trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành
niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của
họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều
kiện gây ra tội phạm.
2. Người chưa
thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội
ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết
giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
3. Việc truy
cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối
với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính
chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc
phòng ngừa tội phạm.
4. Khi xét xử,
nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội, thì Toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại
Điều 70 của Bộ luật này.
5. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với
người chưa thành niên phạm tội.
Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội cần hạn chế áp dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa
án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng
đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa
thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa
thành niên phạm tội
Không áp dụng
hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi.
Không áp dụng
hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
6. Án đã tuyên
đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để
xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Điều 70. Các
biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
1. Đối với
người chưa thành niên phạm tội, Toà án có thể quyết định áp dụng một trong các
biện pháp tư pháp có tính giáo dục, phòng ngừa sau đây:
a) Giáo dục tại
xã, phường, thị trấn;
b) Đưa vào
trường giáo dưỡng.
2. Toà án có
thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ một năm đến hai năm
đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng.
Người được giáo
dục tại xã, phường, thị trấn phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập,
lao động, tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã,
phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Toà án giao trách nhiệm.
3. Toà án có
thể áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ một năm đến hai năm đối với
người chưa thành niên phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi
phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào
một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.
4. Nếu người
được giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc người được đưa vào trường giáo
dưỡng đã chấp hành một phần hai thời hạn do Toà án quyết định và có nhiều tiến
bộ, thì theo đề nghị của tổ chức, cơ quan, nhà trường được giao trách nhiệm
giám sát, giáo dục, Toà án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã,
phường, thị trấn hoặc thời hạn ở trường giáo dưỡng.
Điều 71. Các
hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Người chưa
thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi
tội phạm:
1. Cảnh cáo;
2. Phạt tiền;
3. Cải tạo
không giam giữ;
4. Tù có thời
hạn.
Điều 72. Phạt
tiền
Phạt tiền được
áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng.
Mức phạt tiền
đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà
điều luật quy định.
Điều 73. Cải
tạo không giam giữ
Khi áp dụng
hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, thì
không khấu trừ thu nhập của người đó.
Thời hạn cải
tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần
hai thời hạn mà điều luật quy định.
Điều 74. Tù có
thời hạn
Người chưa
thành niên phạm tội chỉ bị phạt tù có thời hạn theo quy định sau đây:
1. Đối với
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng
quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao
nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
2. Đối với
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng
quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao
nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
Điều 75. Tổng
hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Đối với người
phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực
hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:
1. Nếu tội nặng
nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không
được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 của Bộ luật này;
2. Nếu tội nặng
nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung áp dụng như
đối với người đã thành niên phạm tội.
Điều 76. Giảm
mức hình phạt đã tuyên
1. Người chưa
thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có nhiều tiến bộ và
đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Toà án xét giảm; riêng đối với
hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến bốn năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành
ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.
2. Người chưa
thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc
bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình
phạt còn lại.
3. Người chưa
thành niên bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn
kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn,
thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Toà án có thể quyết định giảm
hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại.
Điều 77. Xoá án
tích
1. Thời hạn để
xoá án tích đối với người chưa thành niên là một phần hai thời hạn quy định tại
Điều 64 của Bộ luật này.
2. Người chưa
thành niên phạm tội, nếu được áp dụng những biện pháp tư pháp quy định tại
khoản 1 Điều 70 của Bộ luật này, thì không bị coi là có án tích.