Nghị quyết 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
- Tải về Ebook Bộ Luật Tố tụng hình sự và những vấn đề liên quan
- Tải văn bản (file .doc) (bấm vào link, đợi 8s, bấm Skip this Ad ở góc trên bên phải để tải về)
- Bộ Luật Tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn mới nhất
BỘ CHÍNH TRỊ
|
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
|
Số: 48-NQ/TW
|
Hà Nội, ngày 24 tháng 05 năm 2005
|
NGHỊ
QUYẾT
VỀ CHIẾN LƯỢC XÂY
DỰNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN
NĂM 2020
Sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi
mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật đã có những tiến bộ quan trọng. Quy trình ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật được đổi mới. Nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo
khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật
trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... Nguyên tắc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được đề cao và phát huy trên thực tế. Công
tác phổ biến và giáo dục pháp luật được tăng cường đáng kể. Những tiến bộ đó đã
góp phần thể chế hoá đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị
- xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp luật nước
ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống.
Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng
đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng
các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu
và yếu.
Nguyên nhân của những yếu kém nêu trên là do
chưa hoạch định được một chương trình xây dựng pháp luật toàn diện, tổng thể,
có tầm nhìn chiến lược; việc đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ pháp luật và
công tác nghiên cứu lý luận về pháp luật chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn;
việc tổ chức thi hành pháp luật còn thiếu chặt chẽ; ý thức pháp luật của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, công chức và nhân dân còn nhiều hạn chế.
Để khắc phục tình trạng trên, đáp ứng các yêu
cầu, nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc ban hành
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật từ nay đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 là một đòi hỏi cấp bách.
I- MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY
DỰNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
1- Mục tiêu
Xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng
tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy
vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định
chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch,
vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp
phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
2- Quan điểm chỉ đạo
2.1- Thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hoá
các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bảo đảm quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hoá - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh.
2.2- Phát huy cao độ nội lực, tích cực, chủ động hội nhập quốc
tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ
quyền, an ninh quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3- Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam ,
đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi
hành pháp luật; kết hợp hài hoà bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân
tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật.
2.4- Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng, hoàn
thiện và tổ chức thi hành pháp luật.
2.5- Tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư
pháp, với những bước đi vững chắc; coi trọng số lượng và chất lượng, có trọng
tâm, trọng điểm; dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi
hành của pháp luật.
II- ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
1- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
1.1- Đổi mới và không ngừng hoàn thiện phương thức lãnh đạo
của Đảng, bảo đảm hoạt động của Đảng phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
1.2- Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; cụ thể hoá đầy đủ nguyên tắc hiến định “Quyền lực Nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi
hành pháp luật. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và
Nhà nước ta từ nay đến năm 2020.
1.3- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Quốc hội, đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, bảo đảm
tốt hơn tính dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật;
trong đó, các đạo luật ngày càng giữ vị trí trung tâm, trực tiếp điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Hoàn thiện pháp luật về quy trình xây dựng, ban hành và công bố
văn bản quy phạm pháp luật thống nhất cho cả Trung ương và địa phương, theo
hướng Quốc hội ban hành luật, giảm dần việc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành
pháp lệnh; Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thi hành luật; hạn chế
dần thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương.
Xác lập cơ chế bảo đảm luật được thi hành ngay khi có hiệu lực.
Thể chế hoá nguyên tắc dân chủ trong hoạt động của cơ quan dân
cử, bảo đảm để nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động xây dựng pháp luật,
giám sát bằng nhiều hình thức việc thi hành pháp luật của các cơ quan, công chức
nhà nước. Hoàn thiện pháp luật về giám sát tối cao của Quốc hội, cơ chế bảo vệ
luật và Hiến pháp.
1.4- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, cán bộ và
hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải
cách hành chính nhà nước. Từ nay đến năm 2010, xoá bỏ vai trò chủ quản của cơ
quan hành chính đối với doanh nghiệp để các cơ quan này tập trung làm tốt chức
năng quản lý nhà nước theo luật; đẩy mạnh xã hội hoá một số dịch vụ công. Đơn
giản hoá và công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, đặc biệt là các thủ
tục liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân và doanh nghiệp.
Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo, bảo đảm mọi quyết
định và hành vi hành chính trái pháp luật đều được phát hiện và có thể bị khởi
kiện trước toà án; đổi mới thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính theo hướng công khai, đơn giản, thuận lợi cho dân,
đồng thời bảo đảm tính thông suốt, hiệu quả của quản lý hành chính.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm
tra, bảo đảm mọi hoạt động quản lý nhà nước đều chịu sự thanh tra, kiểm tra của
Chính phủ, đồng thời khắc phục tình trạng công tác thanh tra, kiểm tra gây khó
khăn, phiền hà cho hoạt động của các cơ quan hành chính và doanh nghiệp.
Ban hành Luật về công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan, công
chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo
đức nghề nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá,
khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức.
Sớm ban hành Luật chống tham nhũng, thực hiện nguyên tắc người
đứng đầu cơ quan, tổ chức phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật nghiêm
trọng của cán bộ do mình trực tiếp quản lý trong khi thi hành công vụ.
Đến năm 2020, pháp luật về tổ chức và hoạt động của hệ thống
các cơ quan hành pháp được hoàn thiện theo hướng Chính phủ tập trung vào chức
năng quản lý, điều hành vĩ mô và thực hiện đúng vai trò là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất. Hình thành cơ chế pháp lý để Chính phủ thực hiện quyền yêu
cầu xem xét, xử lý bằng thủ tục tư pháp đối với mọi vi phạm nghiêm trọng được
phát hiện trong quá trình quản lý, tổ chức thi hành pháp luật. Xây dựng các
luật về tổ chức và hoạt động của các bộ, ngành, uỷ ban nhân dân các cấp.
1.5- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng của Chiến lược cải cách tư
pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan,
chức danh tư pháp.
Trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của toà án nhân dân, bảo đảm toà án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp
thời và nghiêm minh; phân định thẩm quyền xét xử của toà án sơ thẩm và toà án
phúc thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử. Hoàn thiện cơ chế quản lý toà
án nhân dân địa phương theo hướng bảo đảm tính độc lập giữa các cấp toà án
trong hoạt động xét xử.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của viện kiểm
sát nhân dân theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp. Nghiên cứu hướng tới chuyển thành viện công tố.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa
trinh sát, điều tra ban đầu với hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra.
Xây dựng Bộ luật thi hành án điều chỉnh tất cả các lĩnh
vực thi hành án; xác định Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước
thống nhất công tác thi hành án; từng bước xã hội hoá hoạt động thi hành án.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp (luật
sư, công chứng, giám định, cảnh sát tư pháp...) theo hướng đáp ứng ngày càng
đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh
nghiệp; thực hiện xã hội hoá mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản
lý nhà nước với tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân
chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự
tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng
tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứ
quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng
hoạt động tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà hành chính đối với tất cả
các loại khiếu kiện hành chính.
2- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân
Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong
việc xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật,
các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công
dân trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội.
Hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, nhất là toà
án trong việc bảo vệ các quyền đó; xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân; khắc phục việc xử lý oan, sai; khẩn trương
ban hành Luật về bồi thường nhà nước. Xây dựng các đạo luật về lập hội, biểu
tình nhằm xác định rõ quyền, trách nhiệm của công dân trong việc thực thi quyền
dân chủ và trách nhiệm của Nhà nước trong việc duy trì, bảo đảm kỷ cương, trật
tự công cộng.
Hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử,
quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của công dân đối với các hoạt động của cơ quan,
cán bộ, công chức; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham
gia vào công việc của Nhà nước; ban hành Luật về trưng cầu ý dân.
3- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế,
trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Từ nay đến năm 2010 và các năm tiếp theo, tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập
trung vào một số lĩnh vực pháp luật kinh tế trọng điểm, đáp ứng kịp thời yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự
do kinh doanh. Xác định rõ trách nhiệm pháp lý của chủ sở hữu nhà nước và các
chủ sở hữu khác, cơ chế bảo đảm quyền sở hữu và hạn chế quyền sở hữu... Hoàn
thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc công dân được làm
tất cả những gì pháp luật không cấm. Tạo cơ sở pháp luật để công dân tích cực
huy động mọi tiềm năng, nguồn lực và phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao
chất lượng cuộc sống của bản thân, gia đình và góp phần làm giàu cho đất nước.
Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với
nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc tế khác. Xây dựng một khung pháp luật
chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xoá bỏ đặc quyền và độc
quyền kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư; từng bước thống nhất pháp luật
áp dụng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện pháp luật về
hợp đồng theo hướng tôn trọng thoả thuận của các bên giao kết hợp đồng, không trái
với đạo đức xã hội, không xâm phạm trật tự công cộng, phù hợp với tập quán,
thông lệ thương mại quốc tế. Đổi mới cơ bản pháp luật về phá sản.
Xây dựng pháp luật cho việc tạo lập đồng bộ các thị trường.
Tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển thị trường bất động sản,
bao gồm cả quyền sử dụng đất, từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho
người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài đầu tư ở Việt Nam.
Hoàn thiện môi trường pháp lý cho sự hình thành, phát triển
lành mạnh thị trường lao động theo hướng đa dạng hoá các hình thức tìm việc
làm, giới thiệu việc làm và tuyển chọn lao động, khuyến khích mở rộng thị trường
lao động có hàm lượng chất xám cao. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người
lao động và người sử dụng lao động.
Hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hình
thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ theo hướng mở rộng phạm
vi các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với yêu cầu của WTO
và các điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên.
Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng các thiết chế và
chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - tín dụng, tạo môi
trường lành mạnh, bình đẳng cho hoạt động ngân hàng, khuyến khích cạnh tranh
trong hoạt động tín dụng trên nguyên tắc an toàn hệ thống.
Hoàn thiện pháp luật về thị trường chứng khoán.
Hoàn thiện pháp luật về tài chính công, xác định rõ
nguồn thu và cơ cấu chi của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, thống
nhất chế độ chi tiêu; xác định cơ chế đầu tư và sử dụng có hiệu quả các nguồn
vốn từ ngân sách Nhà nước. Công khai, minh bạch việc hình thành, quản lý và sử
dụng các nguồn vốn, tài chính huy động từ dân cư, cộng đồng. Tiếp tục cải
cách pháp luật về thuế theo hướng ổn định, đơn giản hơn, mức thuế phù hợp,
có tính đến các định chế kinh tế quốc tế và khu vực cũng như các điều ước quốc
tế khác có liên quan.
Hình thành đồng bộ pháp luật về các chuyên ngành kinh tế - kỹ
thuật (xây dựng, điện lực, bưu chính - viễn thông, an ninh lương thực, thú y,
thuỷ sản...) thể hiện các nguyên tắc, điều kiện, tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật liên
quan đến phát triển và quản lý ngành.
Hoàn thiện pháp luật về tài nguyên và môi trường theo
nguyên tắc quản lý chặt chẽ, phát triển bền vững, bảo đảm kết hợp hài hoà giữa
việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
4- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giáo dục - đào tạo, khoa
học - công nghệ, y tế, văn hoá - thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân
số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội
Thể chế hoá chủ trương xã hội hoá trong các lĩnh vực văn
hoá - xã hội (giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ, y tế, văn hoá, nghệ thuật, thể thao...); đồng thời bảo đảm sự quản lý,
điều tiết và đầu tư thích đáng của Nhà nước phù hợp với mục tiêu trong từng
lĩnh vực; có chính sách hỗ trợ cần thiết đối với người nghèo và các đối tượng
khó khăn.
Thể chế hoá quan điểm coi giáo dục - đào tạo là quốc sách
hàng đầu, thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá giáo dục”, xây
dựng xã hội học tập, nâng cao chất lượng giáo dục. Xác định rõ sự thống nhất
quản lý nhà nước về giáo dục, đồng thời tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của nhà trường, của cơ sở giáo dục; tạo sự bình đẳng, khuyến khích cạnh
tranh lành mạnh giữa các loại hình đào tạo công lập và ngoài công lập.
Hoàn thiện pháp luật về khoa học và công
nghệ theo hướng khuyến khích sự phát triển các ngành khoa học mới, công
nghệ cao (như thông tin, giao dịch điện tử, y sinh học, bảo vệ gen giống cây
trồng, vật nuôi…); khuyến khích sáng tạo và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa
học, công nghệ, phát triển kinh tế tri thức. Tạo cơ sở pháp lý cho việc xây
dựng một số trường đại học thành trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học trọng
điểm quốc gia; thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, đãi ngộ đặc biệt
đối với nhà khoa học có công trình nghiên cứu xuất sắc.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân tộc, tôn giáo
theo hướng tăng cường đoàn kết đồng bào các dân tộc, tôn giáo trên cơ sở đại
đoàn kết toàn dân tộc. Thể chế hoá toàn diện chính sách bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, cùng phát triển của cộng đồng các dân tộc, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc; bảo đảm quyền của công dân
về tự do tín ngưỡng, phát huy những mặt tốt đẹp về văn hoá, đạo đức của tôn
giáo. Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để kích
động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm tổn hại an ninh quốc gia.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo tồn và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo quan điểm
văn hoá là nền tảng tinh thần và là động lực của sự phát triển đất nước, hướng mọi
hoạt động văn hoá vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Tạo lập đồng bộ cơ sở pháp lý, bảo đảm tự do, dân chủ cho hoạt động sáng tạo và
hưởng thụ các giá trị văn hoá, văn học nghệ thuật; huy động sự tham gia nhiều
hơn, hiệu quả hơn của xã hội vào việc bảo vệ, phát huy di sản văn hoá dân tộc;
ngăn chặn việc lưu hành các sản phẩm văn hoá thông tin độc hại.
Hoàn thiện pháp luật về báo chí và xuất bản theo hướng bảo
đảm quyền tự do báo chí, xuất bản gắn liền với chế độ trách nhiệm pháp lý, trách
nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp của người làm báo, xuất bản. Tăng cường
hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với hoạt động báo chí, xuất bản.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ
nhân dân theo hướng bảo đảm để công dân có điều kiện tiếp cận và sử dụng
các dịch vụ y tế có chất lượng; tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển mạng lưới
y tế cơ sở, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ cao vào hoạt động y
tế; bình đẳng giữa y tế nhà nước và y tế tư nhân. Hoàn thiện pháp luật về hoạt
động nghề nghiệp của những người hành nghề y, dược, về dân số, gia đình, bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, về người khuyết tật.
Thể chế hoá các chính sách về công bằng xã hội để bảo
đảm mọi công dân được tiếp cận và hưởng thụ các loại dịch vụ công, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, xoá đói, giảm nghèo; hoàn thiện pháp luật
về ưu đãi xã hội đối với các đối tượng chính sách, về bảo vệ người tiêu dùng;
hình thành Quỹ bảo hiểm thất nghiệp để bảo đảm an sinh xã hội...
5- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quốc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
Từ nay đến năm 2010, hoàn thiện hệ thống pháp luật về
quốc phòng, an ninh nhằm xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận
an ninh nhân dân; thể chế hoá mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với
củng cố và xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ của công
dân trong việc bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện pháp luật về biên giới quốc gia, vùng
biển, vùng trời; về tổ chức, hoạt động lực lượng vũ trang nhân dân.
Hoàn thiện pháp luật về đấu tranh phòng chống tội
phạm theo hướng xây dựng các cơ quan bảo vệ pháp luật là nòng cốt,
phát huy sức mạnh của toàn xã hội trong việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn
tội phạm. Hoàn thiện chính sách hình sự, bảo đảm yêu cầu đề cao hiệu quả phòng
ngừa; hạn chế hình phạt tử hình, giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt
tiền; cải tạo không giam giữ đối với các loại tội ít nghiêm trọng. Hoàn thiện
pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội, như mại dâm, ma tuý, HIV/AIDS...
Sau năm 2010, xây dựng mới các đạo luật về phòng thủ dân
sự, giáo dục quốc phòng, bảo vệ các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia, chống
khủng bố...
6- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế
Tiếp tục ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế trong
các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, tín dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ,
thuế quan, bảo vệ môi trường... Đồng thời, đẩy mạnh việc rà soát, sửa đổi, bổ
sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với thông lệ
quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Ưu tiên xây dựng các văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ
nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; khẩn trương
rà soát, hoàn thiện pháp luật theo yêu cầu gia nhập WTO; thực hiện các cam kết với
ASEAN, tham gia đầy đủ vào AFTA năm 2006, tiến tới cộng đồng kinh tế châu Á vào
năm 2020.
Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế (trọng
tài, hoà giải) phù hợp với tập quán thương mại quốc tế. Tham gia các điều ước
quốc tế đa phương về tương trợ tư pháp, nhất là các điều ước liên quan tới việc
công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của toà án, quyết định trọng
tài thương mại.
Ký kết và gia nhập các công ước quốc tế về chống khủng
bố quốc tế, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, chống rửa tiền, chống
tham nhũng, các hiệp định tương trợ tư pháp. Chú trọng việc nội luật hoá những
điều ước quốc tế mà Nhà nước ta là thành viên liên quan đến an ninh, trật tự,
an toàn xã hội. Sớm ban hành Luật dẫn độ tội phạm và chuyển giao người bị kết
án phạt tù.
III- CÁC GIẢI PHÁP
1- Các giải pháp về xây dựng pháp luật
1.1- Xác định các lĩnh vực trọng điểm cần ưu tiên đầu
tư để xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Trong chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh của Quốc hội (từng năm và cả nhiệm kỳ) và chương trình xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật hàng năm của Chính phủ, cần xác định một số lĩnh vực trọng điểm
có ý nghĩa then chốt, tạo sức bứt phá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
trong từng giai đoạn để ưu tiên tập trung nguồn lực nhằm xây dựng và ban hành
kịp thời các luật, bộ luật có tính khả thi cao.
Các bộ, ngành cần ưu tiên xây dựng thể chế trong lĩnh vực do
bộ, ngành mình quản lý cho phù hợp với định hướng của Chiến lược này.
1.2- Đổi mới cơ bản quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật từ
sáng kiến pháp luật đến thông qua luật nhằm đẩy nhanh quá trình soạn thảo, ban hành
luật. Nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.
Các dự án luật, pháp lệnh chỉ được xem xét thông qua khi có
giải trình rõ ràng về cơ chế, biện pháp, các nguồn lực bảo đảm tổ chức thực
hiện. Sớm triển khai phương thức ban hành một luật để sửa đổi nhiều đạo luật
liên quan. Xác định rõ quy trình, cơ chế "nội luật hoá" các điều ước
quốc tế mà Việt Nam
là thành viên.
1.3- Nâng cao trình độ và năng lực làm luật của Quốc hội. Tăng
hợp lý tỉ lệ đại biểu chuyên trách, có trình độ, hiểu biết về pháp luật; xác lập
cơ chế bảo đảm thực hiện quyền sáng kiến pháp luật của đại biểu Quốc hội; phát
huy vai trò, trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội trong
việc chuẩn bị, thẩm tra dự án luật, pháp lệnh. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn
cách thức thảo luận, thông qua luật, pháp lệnh.
Tăng cường hoạt động giải thích luật, pháp lệnh của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội.
Tăng cường trách nhiệm của Chính phủ và các bộ trưởng
trong việc chỉ đạo hoạt động xây dựng pháp luật. Chính phủ tập trung xem xét,
quyết định những vấn đề mang tính quan điểm, chính sách và những vấn đề liên
ngành còn có ý kiến khác nhau; tăng cường kiểm tra đối với văn bản quy phạm
pháp luật do các bộ, ngành và địa phương ban hành để bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Kiện toàn và nâng cao năng lực bộ máy giúp việc cho Quốc hội, Chính
phủ, các bộ, ngành trong công tác xây dựng pháp luật. Củng cố bộ phận pháp chế
bộ, ngành, địa phương; thành lập Viện Nghiên cứu lập pháp của Quốc hội.
1.4- Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan,
tổ chức nghiên cứu chuyên ngành trong hoạt động xây dựng pháp luật. Có cơ
chế thu hút các hiệp hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các
chuyên gia giỏi tham gia vào việc nghiên cứu, đánh giá nhu cầu, hoạch định
chính sách pháp luật, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra các dự thảo văn bản pháp
luật. Xác định cơ chế phản biện xã hội và tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân
dân đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
1.5- Hiện đại hoá phương thức và phương tiện xây dựng
pháp luật. Khai thác, ứng dụng tối đa thành tựu của khoa học, kỹ thuật,
nhất là công nghệ thông tin nhằm đổi mới phương pháp, tiến độ, chất lượng và
hiệu quả của quy trình xây dựng pháp luật. Xây dựng và khai thác hiệu quả cơ sở
dữ liệu quốc gia về pháp luật.
1.6- Hoàn thiện pháp luật về Công báo, bảo đảm tất cả
các văn bản quy phạm pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên,
văn bản hành chính có hiệu lực áp dụng chung đều được công bố trên Công báo một
cách đầy đủ, kịp thời và chính xác.
1.7- Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án
lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các
hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật.
2- Các giải pháp thi hành pháp luật
Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ việc hoàn thiện pháp luật
về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành pháp luật trong Nghị quyết này
với các nội dung cải cách hành chính và các giải pháp về cải cách tư pháp.
2.1- Phát triển hệ thống thông tin và phổ biến giáo dục
pháp luật, xây dựng và triển khai Chương trình Quốc gia về phổ biến giáo dục
pháp luật dài hạn. Hình thành Trung tâm Thông tin pháp luật quốc gia, phát
triển mạng lưới thông tin pháp luật. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư
phát triển dịch vụ thông tin, tư vấn, hỗ trợ pháp luật đáp ứng các nhu cầu đa
dạng của nhân dân và phù hợp với pháp luật. Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp pháp lý
cho người nghèo và các đối tượng chính sách theo hướng xã hội hoá. Tăng cường trao
đổi thông tin pháp luật với các tổ chức quốc tế và các quốc gia, trước hết là
với các quốc gia thành viên ASEAN.
2.2- Cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan tư
pháp, trọng tâm là hoạt động xét xử của toà án theo nội dung của Chiến lược cải
cách tư pháp.
2.3- Đề cao kỷ luật, kỷ cương trong các hoạt động của
các cơ quan nhà nước. Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động thanh tra công chức,
công vụ. Đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Bảo đảm mọi
hành vi tham nhũng phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh theo pháp
luật.
2.4- Bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cán
bộ, công chức làm công tác pháp luật. Đổi mới công tác quản lý nhà nước đối
với việc đào tạo cán bộ luật, xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm về đào tạo cán bộ luật.
Bồi dưỡng, cập nhật thường xuyên kiến thức pháp luật cho cán bộ quản lý hành
chính nhà nước, đặc biệt là đội ngũ cán bộ pháp chế của các bộ, ngành. Đổi
mới công tác đào tạo các chức danh tư pháp đáp ứng yêu cầu sử dụng, luân chuyển
các chức danh tư pháp. Chú trọng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho các chức danh
tư pháp. Nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, hiện đại hoá trang thiết bị trong
các cơ sở đào tạo pháp luật, đào tạo các chức danh tư pháp.
2.5- Huy động các nguồn lực tài chính trong nước và
quốc tế; quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó cho việc thực hiện
các mục tiêu và nội dung của Chiến lược.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ
thống chính trị, nhất là của bộ máy nhà nước và các tổ chức đảng từ Trung ương
đến địa phương.
Thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia để tổ chức thực hiện Nghị quyết. Ban Chỉ đạo
quốc gia có trách nhiệm cụ thể hoá Nghị quyết thành chương trình, kế hoạch, đề
án thực hiện cụ thể trong từng thời gian.
2- Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo việc xây dựng chương trình xây
dựng pháp luật dài hạn và hàng năm, trong đó có ưu tiên, trọng điểm trên mỗi
lĩnh vực xây dưng pháp luật trong từng giai đoạn; giám sát chặt chẽ để đảm bảo
tiến độ và chất lượng xây dựng pháp luật.
3- Ban cán sự đảng Chính phủ, Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp xây
dựng chương trình, kế hoạch lập pháp, lập quy, phổ biến giáo dục pháp luật, tổ
chức thi hành pháp luật, đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu hoàn thiện
hệ thống pháp luật của Nghị quyết này, đồng thời kết hợp chặt chẽ với Chương
trình tổng thể cải cách hành chính của Chính phủ.
4- Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương, Ban
cán sự đảng Toà án Nhân dân tối cao và Ban cán sự đảng Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao căn cứ vào Nghị quyết này và yêu cầu cải cách tư pháp xây dựng và thực hiện
các kế hoạch hành động cụ thể để triển khai đúng thời hạn đối với các nhiệm vụ
của ngành mình, cấp mình, đồng thời nâng cao trách nhiệm đối với các hoạt động
phối hợp liên ngành.
5- Các cấp ủy đảng cần quán triệt nội dung Nghị quyết, cụ thể hóa
và tổ chức thực hiện có hiệu quả trong các lĩnh vực hoạt động ở mọi cấp, gắn
với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
6- Ban Chỉ đạo quốc gia thường xuyên theo dõi, kiểm tra việc
thực hiện Nghị quyết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị việc tổ chức thực hiện Nghị
quyết này.
T/M
BỘ CHÍNH TRỊ
TỔNG BÍ THƯ Nông Đức Mạnh |