
Điều 123. Tội giết người
Tham khảo: Bình luận khoa học Bộ Luật hình sự phần chung và tội phạm
Dấu hiệu pháp lý của tội giết người
a. Khách thể
Khách thể của Tội giết người là quan hệ nhân thân mà nội dung của nó là quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người.
Tội giết người xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người thông qua sự tác động làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động - con người đang sống. Nếu hành vi tác động vào đối tượng không phải hay chưa phải là con người thì không xâm phạm đến quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, vì vậy, hành vi đó không phạm tội giết người.
b. Mặt khách quan
Hành vi khách quan
- Hành động phạm tội giết người là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm - quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm.
- Không hành động phạm tội giết người là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm - quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm.
Cần phân biệt Tội giết người với Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
Thực tiễn xét xử cho thấy, để xác định đúng tội danh chúng ta cần phân biệt hai tội này qua các tiêu chí cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, nếu nạn nhân bị chết do tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thì: Định Tội giết người khi người phạm tội vì mong muốn hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra nên đã cố ý đặt nạn nhân vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Định tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng khi người phạm tội chỉ vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của nạn nhân, trước đó người phạm tội không có bất kỳ hành vi cố ý nào xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của nạn nhân.
- Thứ hai, nếu nạn nhân bị chết không phải do tình trạng nguy hiểm đến tính mạng mà do hành vi của người phạm tội cố ý gây ra, thì người thực hiện hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân chỉ có thể phạm tội giết người mà không phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
Hậu quả
Hậu quả của Tội giết người là thiệt hại do hành vi phạm tội giết người gây ra cho quan hệ nhân thân, cho quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Thiệt hại này được thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất - hậu quả chết người khác.
Nghiên cứu hậu quả của Tội giết người có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành. Vì Tội giết người là tội phạm có cấu thành vật chất nên thời điểm hoàn thành của tội phạm này là thời điểm nạn nhân đã chết sinh vật - giai đoạn cuối cùng của sự chết mà ở đó sự sống của con người không gây ra và cũng không có khả năng hồi phục.
Phân biệt Tội giết người (phạm tội chưa đạt) với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Một là, về khách thể của tội phạm, nếu khách thể của Tội giết người là quan hệ nhân thân mà nội dung của nó là quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của con người thì khách thể của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tuy cũng là quan hệ nhân thân, nhưng nội dung của nó lại là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khoẻ của con người;
Sở dĩ trường hợp cố ý gián tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân, nếu nạn nhân không chết thì không định Tội giết người (chưa đạt) mà chỉ có thể định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, bởi vì trong trường hợp này, người phạm tội không mong muốn hậu quả chết người xảy ra. Do đó, nếu nạn nhân không chết thì không thể buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm về hậu quả chết người - điều mà họ không mong muốn và nó cũng không xảy ra trên thực tế.
Để xác định đúng tội danh, cần phân biệt Tội giết người (phạm tội chưa đạt) với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác qua các tiêu chí cơ bản sau đây:
- Nếu lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân thì định tội giết người (phạm tội chưa đạt). Đây là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có khả năng làm nạn nhân chết mà vẫn thực hiện vì mong muốn hậu quả nạn nhân chết xảy ra. Sở dĩ nạn nhân không chết là do nguyên nhân khách quan, ngoài ý muốn của người phạm tội;
- Nếu lỗi của người phạm tội không phải là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân mà chỉ là lỗi cố ý gián tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân hoặc lỗi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (trong trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn 4 yếu tố cấu thành tội phạm này).
Tham khảo: Bình luận tội Cố ý gây thương tích Điều 134 BLHS 2015
Mối quan hệ nhân quả
- Hành vi xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian;
- Hành vi độc lập hoặc trong mối liên hệ tổng hợp với một hay nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết người khác. Khả năng này chính là khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: Khả năng gây chết người của hành động là dùng dao sắc nhọn đâm vào ngực nạn nhân hay của không hành động là không cho trẻ sơ sinh ăn, uống...;
- Hậu quả chết người khác đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi khách quan của Tội giết người hoặc là khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động.
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử Tội giết người trong những năm gần đây cho thấy, không ít trường hợp, do xác định không đúng mối quan hệ nhân quả nên đã xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm. Ví dụ: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 84 ngày 31/7/2011, Tòa án nhân dân tỉnh H đã tuyên bố Bùi Văn H không phạm tội giết người. Tại quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 12/HS-TK ngày 31/3/2013, Chánh án TANC TC đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND TC hủy phần tuyên bố Bùi Văn H không phạm tội giết người của Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để xét xử sơ thẩm lại theo hướng kết án H về Tội giết người. Bởi lẽ, H là người tham gia thực hiện tội phạm một cách tích cực. Khi thấy anh T chạy từ trong nhà ra, H đã cầm côn đánh liên tiếp vào anh T làm anh T bị ngã, tạo điều kiện để Nh xông vào dùng dao đâm anh T. Trên người anh T không phải duy nhất chỉ có vết dao đâm của Nh mà có rất nhiều vết thương bầm tím do vật tày gây ra phù hợp với hung khí là côn do H sử dụng. Vì vậy, có đủ căn cứ để kết luận hậu quả anh T bị chết là do hành vi phạm tội của Nh, Lê Đình Th, Lê Đình H và Bùi Văn H gây ra.
c. Chủ thể
Chủ thể của tội phạm giết người là con người có đủ điều kiện để có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Người có đủ điều kiện để có lỗi, để trở thành chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự - năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi tất yếu của xã hội. Để có được năng lực này con người phải đạt độ tuổi nhất định. Do vậy, độ tuổi cũng là điều kiện của chủ thể của Tội giết người.
d. Mặt chủ quan
Lỗi của người phạm tội giết người có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp.
Lỗi cố ý gián tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thể làm nạn nhân chết, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hoặc chấp nhận hậu quả nạn nhân chết.
Để định đúng tội danh, cần phân biệt hai tội này qua tiêu chí cơ bản sau đây:
- Nếu lỗi của người phạm tội với cái chết của nạn nhân là cố ý thì định Tội giết người. Đây là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể làm nạn nhân chết mà vẫn thực hiện vì mong muốn nạn nhân chết hoặc chấp nhận hậu quả nạn nhân chết.
- Nếu lỗi của người phạm tội với cái chết của nạn nhân là vô ý thì có thể định tội vô ý làm chết người. Đây là trường hợp người phạm tội không những không mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra, cũng không có thái độ “thờ ơ mặc kệ cho hậu quả đó xảy ra mà còn không thấy trước được hậu quả đó mà đáng lẽ ra phải thấy hoặc có thể thấy hoặc tuy có thấy trước hậu quả có thể xảy ra, nhưng chủ quan tin vào một điều kiện cụ thể nào đó sẽ làm cho hậu quả không xảy ra”.
Ngược lại, trong trường hợp giết người với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội không những hướng tất cả sự chú ý vào việc gây ra hậu quả chết người khác mà còn cố gắng và quyết tâm gây ra hậu quả đó. Họ sẽ tiếp tục hành động, thậm chí còn hành động cương quyết và mạnh mẽ hơn chừng nào còn có biểu hiện là nạn nhân chưa chết, chưa bị tổn thương cơ thể hoặc chưa thể chết, chưa thể bị tổn thương cơ thể được. Cho nên, nếu các tình tiết khác tương đương, người phạm tội giết người với lỗi cố ý trực tiếp phải bị xử phạt nặng hơn người phạm tội giết người với lỗi cố ý gián tiếp.
Khác dấu hiệu lỗi, trong mặt chủ quan của Tội giết người, động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc.
Tuy nhiên, ở một số cấu thành tội phạm mà mặt khách quan cũng đòi hỏi dấu hiệu hành vi gây ra cái chết cho người khác, nhưng dấu hiệu động cơ hoặc mục đích phạm tội lại được quy định là dấu hiệu bắt buộc thì việc xác định đúng động cơ, mục đích phạm tội sẽ giúp định đúng tội danh, xác định đúng khung hình phạt và phân biệt được. Tội giết người với một số tội phạm khác cũng có hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân. Cụ thể là:- Cố ý gây ra cái chết cho người khác (thường là cán bộ, công chức hoặc công dân đang giữ những trọng trách nhất định) nhằm chống chính quyền nhân dân thì phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113); không nhằm chống chính quyền nhân dân thì (mới) phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người.
- Người nào trong khi thi hành công vụ, xuất phát từ động cơ thi hành công vụ mà cố ý gây ra cái chết cho người khác thì phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127); nếu do hống hách, coi thường tính mạng người khác hoặc do tư thù cá nhân thì (mới) phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người.
- Cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó thì phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125); nếu không thỏa mãn các điều kiện trên thì (mới) phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người.
- Người nào vì muốn bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà cố ý gây ra cái chết cho người đang xâm phạm những lợi ích nói trên một cách rõ ràng quá mức cần thiết thì không phạm tội giết người mà phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 126).
Tình tiết định khung tăng nặng của Tội giết người
Giết 02 người trở lên (điểm a khoản 1 Điều 123)
Giết 02 người trở lên là trường hợp người phạm tội cố ý gây ra cái chết cho 02 người khác trở lên một cách trái pháp luật. Người phạm tội trong trường hợp này có ý định giết từ 02 người trở lên hoặc có ý thức bỏ mặc, chấp nhận hậu quả 02 người chết trở lên xảy ra.
Nếu người phạm tội có ý thức bỏ mặc, chấp nhận hậu quả chết người xảy ra (lỗi cố ý gián tiếp) thì phải có từ 02 người chết trở lên mới áp dụng tình tiết định khung tăng nặng này.
Giết người dưới 16 tuổi (điểm b khoản 1 Điều 123)
Xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ những người không có khả năng tự vệ nên BLHS đã quy định tình tiết này là tình tiết định khung tăng nặng của tội phạm nói chung và Tội giết người nói riêng.
Giết phụ nữ mà biết là có thai (điểm c khoản 1 Điều 123)
Giết phụ nữ mà biết là có thai là trường hợp người phạm tội biết rõ người mình giết là phụ nữ đang có thai (không kể tháng thứ mấy). Nếu nạn nhân là người tình của người phạm tội, người phạm tội giết nạn nhân để trốn tránh trách nhiệm thì còn có thể bị áp dụng thêm tình tiết định khung tăng nặng giết người vì động cơ đê hèn.
Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân (điểm d khoản 1 Điều 123)
Cũng có thể được coi là giết người đang thi hành công vụ trong một số trường hợp nạn nhân là những công dân được huy động làm nhiệm vụ (như tuần tra, canh gác...) theo kế hoạch của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của nhà nước, của xã hội hoặc nạn nhân tuy không phải là những công dân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền huy động, nhưng đã tự nguyện tham gia giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong một số lĩnh vực nhất định như: Đuổi bắt người phạm tội bỏ trốn; can ngăn những vụ đánh nhau ở nơi công cộng...
Khác với trường hợp giết người đang thi hành công vụ, giết người vì lý do công vụ của nạn nhân là trường hợp giết nạn nhân không phải lúc họ đang thi hành công vụ mà có thể trước hoặc sau đó. Thông thường, nạn nhân là người đã thi hành một nhiệm vụ và vì thế đã làm cho người phạm tội thù oán nên đã giết họ. Tuy nhiên, có một số trường hợp người bị giết chưa kịp thi hành nhiệm vụ được giao, nhưng người có hành vi giết người cho rằng nếu để người này sống, nhiệm vụ mà họ thực hiện sẽ gây ra thiệt hại cho mình, nên đã giết nạn nhân trước.
Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình (điểm đ khoản 1 Điều 123)
Đây là trường hợp người phạm tội đã cố ý gây ra cái chết cho những người mà họ phải kính trọng, phải biết ơn, đó là ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình.
Việc BLHS năm 2015 quy định tình tiết định khung tăng nặng giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình nhằm trừng trị và giáo dục người phạm tội ý thức tôn trọng ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo; giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật và giữ gìn đạo đức xã hội.
Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (điểm e khoản 1 Điều 123)
Ví dụ: Ngay sau khi giết nạn nhân, người phạm tội lại thực hiện Tội cướp tài sản của người khác không có quan hệ gì với nạn nhân.
Trường hợp giết người này khác với trường hợp giết người để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác ở chỗ: Tội phạm mà người phạm tội thực hiện trước hoặc sau khi giết nạn nhân không liên quan đến Tội giết người và phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác (điểm g khoản 1 Điều 123)
Ví dụ: Giết người để cướp tài sản, giết người để khủng bố, giết người để trốn đi nước ngoài...
Giết người để che giấu tội phạm khác là trường hợp trước khi giết nạn nhân, người phạm tội đã thực hiện tội phạm khác và để che giấu tội phạm đó, người phạm tội đã giết nạn nhân. Thông thường sau khi phạm một tội có nguy cơ bị lộ, người phạm tội cho rằng chỉ có giết người thì tội phạm mà mình thực hiện mới không bị phát hiện. Người bị giết trong trường hợp này thường là người đã biết hành vi phạm tội hoặc là người cùng thực hiện tội phạm với người phạm tội.
Ví dụ: A phạm tội trộm cắp tài sản của C bị B phát hiện. Để che giấu tội phạm trộm cắp tài sản, A đã giết B.
Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân (điểm h khoản 1 Điều 123)
Nếu vì quá căm tức, uất ức hoặc bị kích động mạnh mà người phạm tội sau khi giết nạn nhân đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân để thỏa mãn sự căm tức, uất ức hoặc kích động mạnh thì không thuộc trường hợp phạm tội này.
Ví dụ: Sau khi giết người, người phạm tội đã mổ bụng, lấy gan nạn nhân cho chó ăn. Trường hợp này có thể áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “thực hiện tội phạm một cách man rợ”.
Thực hiện tội phạm một cách man rợ (điểm i khoản 1 Điều 123)
Ví dụ: Sau khi đã giết người, người phạm tội cắt xác nạn nhân ra nhiều phần đem vứt mỗi nơi một ít để phi tang. Đây là vấn đề về lý luận cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo chúng tôi nếu coi cả những hành vi có tính chất man rợ nhằm che giấu Tội giết người cũng là “thực hiện tội phạm một cách man rợ” thì nên quy định trường hợp phạm tội này là “phạm tội một cách man rợ”, vì phạm tội bao hàm cả hành vi che giấu tội phạm, còn thực hiện tội phạm mới chỉ mô tả hành vi khách quan và ý thức chủ quan của người phạm tội trong cấu thành tội phạm giết người.
Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp (điểm k khoản 1 Điều 123)
Lợi dụng nghề nghiệp để giết người là phạm tội với thủ đoạn rất xảo quyệt, nên nhà làm luật không chỉ dừng lại ở quy định là tình tiết tăng nặng mà coi thủ đoạn này là tình tiết định khung hình phạt.
Phải xác định rõ người phạm tội đã lợi dụng nghề nghiệp của mình để giết người thì mới thuộc trường hợp phạm tội này. Nếu người có hành vi giết người bằng phương pháp có tính chất nghề nghiệp, nhưng đó không phải là nghề nghiệp của y mà lại lợi dụng người có nghề nghiệp đó rồi thông qua người này thực hiện ý đồ của mình thì không thuộc trường hợp phạm tội này.
Ví dụ: Một kẻ đã đánh tráo ống thuốc tiêm của y tá điều trị, thay vào đó một ống thuốc giả có nhãn hiệu như ống thuốc thật, nhưng có độc tố mạnh để mượn tay người y tá giết chết bệnh nhân mà y có thù oán.
Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người (điểm l khoản 1 Điều 123)
Giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người không những đe doạ gây ra hậu quả chết nhiều người mà còn thể hiện mức độ tàn ác của hành vi phạm tội.
Do đó, BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và cả BLHS năm 2015 đều quy định tình tiết “giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” là tình tiết định khung tăng nặng.
Thuê giết người hoặc giết người thuê (điểm m khoản 1 Điều 123)
Giết người thuê là trường hợp người phạm tội lấy việc giết người làm phương tiện để kiếm tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Vì muốn có tiền nên người phạm tội đã nhận lời với người thuê mình để giết một người khác. Việc trừng trị nặng người giết thuê là nhằm ngăn chặn tình trạng “đâm thuê, chém mướn”, nhất là trong nền kinh tế thị trường, ở nơi này hoặc nơi khác đã xuất hiện không ít người chuyên hoạt động đâm thuê, chém mướn.
Có tính chất côn đồ (điểm n khoản 1 Điều 123)
Khi xác định trường hợp giết người có tính chất côn đồ cần phải có quan điểm xem xét toàn diện mối quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân, thái độ của người phạm tội khi gây án, nguyên nhân nào dẫn đến việc người phạm tội giết người..., tránh xem xét một cách phiến diện như: Chỉ nhấn mạnh đến nhân thân người phạm tội hoặc địa điểm xảy ra vụ giết người hay hành vi cụ thể gây ra cái chết cho nạn nhân...
Có tổ chức (điểm o khoản 1 Điều 123)
Thực tiễn xét xử cho thấy, do chưa có quan niệm thống nhất cho nên một số Tòa án đã nhầm lẫn phạm tội có tổ chức với những trường hợp đồng phạm khác. Vì vậy, để phân biệt phạm tội có tổ chức với những trường hợp đồng phạm khác cần phải chú ý đến các vấn đề sau đây: Phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
Trong thực tế, sự câu kết này có thể thể hiện dưới các dạng sau đây: (1) Những người đồng phạm giết người đã tham gia một tổ chức phạm tội như: Hội, băng, ổ... có những tên chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội giết người không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội. (2) Những người đồng phạm giết người đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước. (3) Những người đồng phạm giết người tuy chỉ thực hiện tội phạm một lần, nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm.
Ví dụ: Giết người mà có bàn bạc hoặc phân công điều tra sinh hoạt của nạn nhân, chuẩn bị phương tiện và kế hoạch che giấu tội phạm...
Tái phạm nguy hiểm (điểm p khoản 1 Điều 123)
- Một là, đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi giết người. Ví dụ: A đã bị kết án về tội cướp tài sản chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi giết người.
- Hai là, đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi giết người. Ví dụ: A đã tái phạm về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi giết người.
Vì động cơ đê hèn (điểm q khoản 1 Điều 123)
Ngoài các trường hợp đã nêu trên, thực tiễn xét xử còn coi trường hợp vì không giết được người mình muốn giết mà giết người thân của họ là giết người vì động cơ đê hèn.
Hình phạt đối với Tội giết người
Hình phạt chính đối với Tội giết người
Hình phạt chính đối với Tội giết người theo quy định tại khoản 1 Điều 123
Thực tiễn xét xử cho thấy, có bị cáo phạm tội giết người chỉ thuộc một trong các trường hợp (chỉ có 01 tình tiết định khung tăng nặng) quy định tại khoản 1 Điều 123 nhưng vẫn có thể bị phạt tử hình. Trong khi đó, có bị cáo phạm tội giết người thuộc nhiều trường hợp (có nhiều tình tiết định khung tăng nặng) quy định ở khoản 1 Điều 123 nhưng chỉ bị xử phạt dưới 20 năm tù.
Vì vậy, không nên căn cứ vào số lượng các trường hợp phạm tội (các tình tiết định khung tăng nặng) mà phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với người phạm Tội giết người.
Hình phạt chính đối với Tội giết người theo quy định tại khoản 2 Điều 123
Đây là trường hợp giết người thông thường, không có các tình tiết định khung tăng nặng. Về kỹ thuật lập pháp, trường hợp phạm tội giết người này chính là cấu thành tội phạm cơ bản của Tội giết người, nhưng do truyền thống lập pháp của nước ta về Tội giết người nên nhà làm luật đã xây dựng cấu thành tội phạm tăng nặng trước cấu thành tội phạm cơ bản. Vì vậy, không được coi khoản 2 Điều 123 BLHS là cấu thành tội phạm giảm nhẹ của Tội giết người như trong một số tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia.
Nếu người phạm Tội giết người có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng (dưới 07 năm tù).
Hình phạt chính đối với Tội giết người theo quy định tại khoản 3 Điều 123
Chuẩn bị phạm tội giết người là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm giết người. Khoản 3 Điều 123 là cách quy định mới của BLHS năm 2015. Bởi lẽ, trong BLHS năm 1999, hành vi chuẩn bị phạm tội giết người chỉ được quy định chung (với nội dung là: Chỉ người nào chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện) trong phần chung của BLHS, không được quy định trong một khoản của từng tội phạm, phần các tội phạm của BLHS. Cách quy định mới này tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu và áp dụng quy định của BLHS nói chung và quy định của BLHS về Tội giết người nói riêng.
Hình phạt bổ sung đối với Tội giết người
Đây là những hình phạt bổ sung có thể được áp dụng kèm theo hình phạt chính trong những trường hợp cần thiết. Đối với Tội giết người, nếu Toà án áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội thì không thể áp dụng hình phạt bổ sung vì các hình phạt bổ sung là hình phạt phải thi hành sau khi chấp hành xong hình phạt tù, một người đã bị kết án tử hình thì không có việc chấp hành xong hình phạt tù, nếu áp dụng hình phạt bổ sung đối với người bị án tử hình sẽ trở thành vô nghĩa.
Tuy nhiên, hình phạt tù chung thân là hình phạt tù không có thời hạn, nếu Toà án áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội thì khi tuyên án, Toà án không thể quyết định cấm cư trú hoặc quản chế người phạm tội mấy năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù, quyết định như vậy xét về góc độ pháp lý là không chính xác, vì không ai biết khi nào người phạm tội bị phạt tù chung thân chấp hành xong hình phạt.
Việc quy định hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với người phạm Tội giết người không những hỗ trợ cho hình phạt chính, tăng khả năng cá thể hóa hình phạt, mà còn giúp đạt được mục đích của hình phạt là không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung và Tội giết người nói riêng./.
Cho e hỏi phạm tội giết người theo điểm n khoản 1 điều 123 bộ luật hình sự, nhưng người bị hại không có thiệt mạng. khả năng bị phạt bao nhiêu năm tù ak
Trả lờiXóa- Phạm tội giết người theo điểm n (Có tính chất côn đồ) theo quy định thì bị phạt từ từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Nếu giết người mà người bị hại chưa chết là phạm tội chưa đạt.
Xóa- Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
- Theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 57 Bộ Luật hình sự 2015 thì quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt được quy định như sau:
1. Đối với hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.
3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù.
Phan biet về tình tiết giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó thực hiện phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng với tình tiết giết người nhằm che giấu tội phạm khác? Ví dụ chứng minh.
Trả lờiXóa