Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 - Phần thư 2: Khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
PHẦN THỨ HAI
KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
Chương IX
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Điều 143. Căn cứ
khởi tố vụ án hình sự
Chỉ được khởi tố vụ án khi đã
xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những
căn cứ:
1. Tố giác của cá nhân;
2. Tin báo của cơ quan,
tổ chức, cá nhân;
3. Tin báo trên phương
tiện thông tin đại chúng;
4. Kiến nghị khởi tố của
cơ quan nhà nước;
5. Cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
6. Người phạm tội tự
thú.
Điều 144. Tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Tố giác về tội phạm
là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có
thẩm quyền.
2. Tin báo về tội phạm
là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông
báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông
tin đại chúng.
3. Kiến nghị khởi tố là
việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo
chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm
quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
4. Tố giác, tin báo về
tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản.
5. Người nào cố ý tố
giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị
xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của luật.
Điều 145. Trách nhiệm
tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố
1. Mọi tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời.
Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận không được từ chối tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
2. Cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gồm:
a) Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
b) Cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về
tội phạm.
3. Thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố:
a) Cơ quan điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố theo thẩm quyền điều tra của mình;
b) Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo thẩm quyền điều tra
của mình;
c) Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu
bằng văn bản nhưng không được khắc phục.
4. Cơ quan có thẩm quyền
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có trách nhiệm
thông báo kết quả giải quyết cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin
về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Điều 146.
Thủ tục tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Khi cơ quan, tổ chức,
cá nhân trực tiếp tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 145 của Bộ luật
này phải lập biên bản tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận; có thể ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh việc tiếp nhận.
Trường hợp tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gửi qua dịch vụ bưu chính, điện thoại hoặc
qua phương tiện thông tin khác thì ghi vào sổ tiếp nhận.
2. Trường hợp phát hiện tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách
nhiệm chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố kèm theo tài
liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố kèm theo tài liệu có liên quan đã
tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Trường hợp quy định tại điểm c khoản 3 Điều 145 của Bộ
luật này thì trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày Viện kiểm sát có yêu cầu, cơ
quan có thẩm quyền đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố đó phải chuyển hồ sơ có liên quan cho Viện kiểm sát để xem xét,
giải quyết.
3. Công an
phường, thị trấn, Đồn Công an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển ngay
tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ
quan điều tra có thẩm quyền.
Công an xã có trách
nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, lấy lời
khai ban đầu và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu,
đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
4. Các cơ quan, tổ chức
khác sau khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm thì chuyển ngay cho Cơ quan
điều tra có thẩm quyền. Trường hợp khẩn cấp thì có thể báo tin trực tiếp qua
điện thoại hoặc hình thức khác cho Cơ quan điều tra nhưng sau đó phải thể hiện
bằng văn bản.
5. Trong thời hạn 03
ngày kể từ ngày tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận đó cho Viện kiểm sát
cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Điều 147.
Thời hạn, thủ tục giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Trong thời hạn 20
ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định:
a) Quyết định khởi tố vụ
án hình sự;
b) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;
c) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
2. Trường hợp vụ việc bị
tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp
hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn giải quyết tố
giác, tin báo, kiến nghị khởi tố có thể kéo dài nhưng không quá 02 tháng.
Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh trong thời hạn quy định
tại khoản này thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện
kiểm sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02 tháng.
Chậm nhất là 05 ngày
trước khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh quy định tại khoản này, Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải có văn
bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền gia
hạn thời hạn kiểm tra, xác minh.
3. Khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền có quyền
tiến hành các hoạt động:
a) Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan
để kiểm tra, xác minh nguồn tin;
b) Khám nghiệm hiện trường;
c) Khám nghiệm tử thi;
d) Trưng cầu giám định, yêu
cầu định giá tài sản.
4. Trình tự, thủ tục, thời hạn
Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được
thực hiện theo quy định tại Điều này.
Điều 148. Tạm đình
chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Hết thời hạn quy định tại
Điều 147 của Bộ luật này, cơ quan có thẩm quyền giải quyết quyết định tạm đình
chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi thuộc
một trong các trường hợp:
a) Đã trưng cầu giám định, yêu
cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết
quả;
b) Đã yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối
với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả.
2. Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra phải gửi quyết định tạm đình chỉ kèm theo tài liệu liên
quan đến Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để kiểm sát và gửi quyết định
tạm đình chỉ đó cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm,
kiến nghị khởi tố.
Trường hợp quyết định tạm đình
chỉ không có căn cứ thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình
chỉ để tiếp tục giải quyết. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định hủy
bỏ quyết định tạm đình chỉ, Viện kiểm sát phải gửi quyết định đó cho Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cơ
quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời
hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá
01 tháng kể từ ngày Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra nhận được quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ.
3. Trường hợp tạm đình chỉ
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì việc giám
định, định giá tài sản hoặc tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho
đến khi có kết quả.
Điều 149. Phục hồi
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Khi lý do tạm đình chỉ việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra
quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không
quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi.
2. Trong thời hạn 03 ngày kể
từ ngày ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định phục hồi cho Viện kiểm sát cùng
cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố
giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Điều 150. Giải quyết tranh
chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Tranh chấp về thẩm quyền
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố do Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp giải quyết. Tranh chấp thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra do Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết.
2. Tranh chấp về thẩm quyền
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra cấp tỉnh,
giữa các Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu do Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương giải quyết. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra cấp
huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, giữa các Cơ
quan điều tra quân
sự khu vực thuộc
các quân khu khác nhau do Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi đầu tiên tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giải quyết.
3. Tranh chấp về thẩm quyền
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan
điều tra của Công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao giải quyết.
Điều 151. Giải quyết vụ việc
có dấu hiệu tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát
hiện
Cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm thì quyết định việc khởi tố
vụ án theo thẩm quyền hoặc chuyển cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải
quyết.
Điều 152. Người
phạm tội tự thú, đầu thú
1. Khi người phạm tội đến tự
thú, đầu thú, cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản ghi rõ họ tên,
tuổi, nghề nghiệp, chỗ ở và lời khai của người tự thú, đầu thú. Cơ quan, tổ
chức tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú có trách nhiệm thông báo ngay
cho Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát.
2. Trường hợp xác định tội
phạm do người tự thú, đầu thú thực hiện không thuộc thẩm quyền điều tra của
mình thì Cơ quan điều tra tiếp nhận người tự thú, đầu thú phải thông báo ngay
cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiếp nhận, giải quyết.
3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú, Cơ quan điều tra có thẩm
quyền phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều 153. Thẩm
quyền khởi tố vụ án hình sự
1. Cơ quan điều tra quyết định
khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm, trừ những
vụ việc do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra,
Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết quy định
tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này.
2. Cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong
trường hợp quy định tại Điều 164 của Bộ luật này.
3. Viện kiểm sát ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp:
a) Viện kiểm sát hủy bỏ quyết
định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
b) Viện kiểm sát trực tiếp giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
c) Viện kiểm sát trực tiếp
phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử.
4. Hội đồng xét xử ra quyết
định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét
xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.
Điều 154. Quyết
định khởi tố vụ án hình sự
1. Quyết định khởi tố vụ án
hình sự phải ghi rõ căn cứ khởi tố, điều, khoản của Bộ luật hình sự được áp
dụng và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.
2. Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát phải gửi quyết định đó
đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định đó kèm
theo tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát có thẩm quyền để kiểm sát việc khởi
tố.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Tòa án phải gửi quyết định đó kèm theo
tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều 155. Khởi tố
vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
1. Chỉ được khởi tố vụ
án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138,
139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại
hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
2. Trường hợp người đã yêu cầu
khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác
định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc,
cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
3. Bị hại hoặc người đại diện
của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường
hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Điều 156. Thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự
1. Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát ra quyết
định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ xác định tội phạm
đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra; ra quyết định bổ sung quyết
định khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ xác định còn tội phạm khác chưa bị
khởi tố.
2. Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
phải gửi quyết định kèm theo các tài liệu liên quan đến việc thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố vụ án hình sự cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện
kiểm sát có thẩm quyền để kiểm sát việc khởi tố.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện
kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
Điều 157. Căn cứ
không khởi tố vụ án hình sự
Không được khởi tố vụ án hình
sự khi có một trong các căn cứ sau:
1. Không có sự việc phạm tội;
2. Hành vi không cấu thành tội
phạm;
3. Người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
4. Người mà hành vi phạm tội
của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
5. Đã hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự;
6. Tội phạm đã được đại xá;
7. Người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
8. Tội phạm quy định tại
khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ
luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
Điều 158. Quyết định không
khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự
1. Khi có một trong các căn cứ
quy định tại Điều 157 của Bộ luật này thì người có quyền khởi tố vụ án ra quyết
định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố thì phải ra quyết định hủy bỏ
quyết định khởi tố vụ án hình sự và thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố biết rõ lý do; nếu xét thấy
cần xử lý bằng biện pháp khác thì chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền giải
quyết.
Quyết định không khởi tố vụ án
hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có
liên quan phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền
trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân
đã tố giác hoặc báo tin về tội phạm có quyền khiếu nại quyết định không khởi tố
vụ án hình sự. Thẩm quyền và thủ tục giải quyết khiếu nại được thực hiện
theo quy định tại Chương XXXIII của Bộ luật này.
Điều 159. Nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết nguồn tin
về tội phạm
1. Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ; phê chuẩn, không phê chuẩn các biện
pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết nguồn
tin về tội phạm theo quy định của Bộ luật này.
2. Khi cần thiết, đề ra yêu cầu kiểm tra, xác
minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện.
3. Quyết định gia hạn thời hạn
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố
vụ án hình sự.
4. Yêu cầu Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố vụ án
hình sự.
5. Trực tiếp giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong các trường hợp do Bộ luật
này quy định.
6. Hủy bỏ quyết định tạm giữ,
quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự,
quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm và các quyết định tố
tụng khác trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra.
7. Thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn khác trong việc thực hành quyền công tố theo quy định của Bộ luật này nhằm
chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội.
Điều 160. Nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát trong việc tiếp nhận và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội
phạm
1. Tiếp nhận đầy đủ tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố do cơ quan, tổ chức, cá nhân chuyển đến,
tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú và chuyển ngay cho Cơ quan điều tra
có thẩm quyền giải quyết.
2. Kiểm sát việc tiếp nhận,
trực tiếp kiểm sát, kiểm sát việc kiểm tra, xác minh và việc lập hồ sơ giải
quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát việc tạm đình chỉ việc giải quyết
nguồn tin về tội phạm; kiểm sát việc phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm.
3. Khi phát hiện việc tiếp nhận, giải
quyết nguồn tin về tội phạm không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra thực hiện các hoạt động:
a) Tiếp nhận, kiểm tra, xác
minh, ra quyết định giải quyết nguồn tin về tội phạm đầy đủ, đúng pháp luật;
b) Kiểm tra việc tiếp nhận,
giải quyết nguồn
tin về tội phạm
và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát;
c) Cung cấp tài liệu về vi
phạm pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm;
d) Khắc phục vi phạm pháp luật
và xử lý nghiêm người vi phạm;
đ) Yêu cầu thay đổi Điều tra
viên, Cán bộ điều tra.
4. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền
giải quyết nguồn
tin về tội phạm.
5. Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cung cấp tài liệu liên quan
để kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm.
6. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác
trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của Bộ luật này.
Điều 161. Nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố vụ án hình
sự
1. Khi thực hành
quyền công tố trong việc khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát có những nhiệm
vụ, quyền hạn:
a) Yêu cầu Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc
thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự;
b) Hủy bỏ quyết định khởi tố,
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định
không khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ và trái pháp luật;
c) Trường hợp quyết định khởi
tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử không có căn cứ thì Viện kiểm sát kháng
nghị lên Tòa án trên một cấp;
d) Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định
khởi tố vụ án
hình sự trong các trường hợp do Bộ luật này quy định;
đ) Thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn khác để thực hành quyền công tố trong việc khởi tố vụ án hình sự theo
quy định của Bộ luật này.
2. Khi kiểm sát việc
khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn:
a) Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc khởi tố của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra, bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện đều
phải được khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn cứ và đúng pháp luật;
b) Yêu cầu Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cung cấp tài
liệu liên quan để kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự;
c) Thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn khác trong kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật
này.
Điều 162. Trách nhiệm của Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong
việc thực hiện yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát trong việc khởi tố
1. Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải thực hiện yêu cầu,
quyết định của Viện kiểm sát trong việc khởi tố.
2. Đối với quyết định quy định
tại khoản 1 và khoản 6 Điều 159, điểm b khoản 1 Điều 161 của Bộ luật này, nếu
không nhất trí, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra vẫn phải thực hiện nhưng có quyền kiến nghị với Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị
của Cơ quan điều tra hoặc trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị
của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết
cho cơ quan đã kiến nghị.
Chương X
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
Điều 163. Thẩm
quyền điều tra
1. Cơ quan điều tra của Công
an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Cơ quan điều tra trong Quân
đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.
3. Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều
tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy
định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt
động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa
án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động
tư pháp.
4. Cơ quan điều tra có thẩm
quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình.
Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định
được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan
điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.
5. Việc phân cấp thẩm quyền
điều tra như sau:
a) Cơ quan điều tra cấp huyện,
Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực;
b) Cơ quan điều tra cấp tỉnh
điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều
tra cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội có tổ
chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra;
Cơ quan điều tra quân sự cấp
quân khu điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ
quan điều tra cấp khu vực nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra;
c) Cơ quan điều tra Bộ Công
an, Cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng điều tra vụ án hình sự về tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra
lại; vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến
nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu xét thấy cần trực
tiếp điều tra.
Điều 164. Nhiệm vụ, quyền hạn
của các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh
sát biển, Kiểm ngư và cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
1. Khi phát hiện hành vi có
dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực và địa bàn quản lý của mình thì các cơ quan
của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có nhiệm vụ,
quyền hạn:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm
trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ
ràng thì quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, tiến hành điều tra
và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 01 tháng
kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự;
b) Đối với tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm
ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì quyết định khởi tố vụ án hình sự, tiến
hành hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có
thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự.
2. Trong Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân, ngoài các Cơ quan điều tra quy định tại Điều 163 của Bộ luật
này, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
trong khi làm nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thì
có quyền khởi tố vụ án hình sự, tiến hành hoạt động điều tra ban đầu và
chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày kể
từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
3. Các cơ quan của Bộ đội
biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư, cơ quan
khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra phải thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều
39 và Điều 40 của Bộ luật này và thực hiện đúng nguyên tắc, trình tự, thủ tục
tố tụng đối với hoạt động điều tra do Bộ luật này quy định. Viện kiểm sát có
trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động điều tra của các cơ quan này.
4. Thẩm quyền điều tra cụ thể
của các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh
sát biển, Kiểm ngư và cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện theo quy định của
Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự.
Điều 165. Nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự
1. Yêu cầu Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc
thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can.
2. Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi
tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật.
3. Khởi tố, thay đổi, bổ sung
quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can trong các trường hợp do Bộ luật này quy định.
4. Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm,
khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết
định tố tụng khác không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của
Bộ luật này; hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật
của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra. Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy bỏ thì trong quyết định không phê
chuẩn hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do.
5. Quyết định áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật
này.
6. Đề ra yêu cầu điều tra và
yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra tiến hành điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu Cơ quan
điều tra truy nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
7. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động
điều tra trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê
chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai,
bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục hoặc trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài
liệu, chứng cứ
khi quyết định việc truy tố.
8. Khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện
hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án
hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội
phạm.
9. Quyết định việc gia hạn thời hạn
điều tra, thời hạn tạm giam; quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; hủy bỏ quyết định tách, nhập
vụ án.
10. Thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn khác trong việc thực hành quyền công tố theo quy định của Bộ luật này.
Điều 166. Nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự
1. Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
2. Kiểm sát hoạt động tố tụng
hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
3. Giải quyết tranh chấp về
thẩm quyền điều tra.
4. Yêu cầu Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cung cấp tài
liệu liên quan để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều
tra khi cần thiết.
5. Khi phát hiện việc điều tra
không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện các hoạt
động:
a) Tiến hành hoạt động điều
tra đúng pháp luật;
b) Kiểm tra việc điều tra và
thông báo kết quả cho Viện kiểm sát;
c) Cung cấp tài liệu liên quan
đến hành vi, quyết định tố tụng có vi phạm pháp luật trong việc điều tra.
6. Kiến nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khắc phục vi
phạm trong việc khởi tố, điều tra.
7. Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thay đổi Điều tra
viên, Cán bộ điều
tra, xử lý nghiêm
minh Điều tra viên, Cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng.
8. Kiến nghị cơ quan, tổ chức
hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn khác trong việc kiểm sát điều tra vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật
này.
Điều 167. Trách nhiệm của Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
trong việc thực hiện yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều
tra
1. Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải thực hiện yêu cầu,
quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra.
2. Đối với quyết định quy định
tại khoản 4 và khoản 5 Điều 165 của Bộ luật này nếu không nhất trí, Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra vẫn
phải thực hiện nhưng có quyền kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị của Cơ quan điều tra hoặc
trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị của cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải
xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan đã kiến nghị.
Điều 168. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong việc thực hiện quyết định, yêu cầu của Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát
Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải
nghiêm chỉnh thực hiện quyết định, yêu cầu của Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự; trường hợp không chấp hành mà không vì lý do bất
khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì bị xử lý theo quy định của
pháp luật.
Điều 169. Chuyển
vụ án để điều tra
1. Viện kiểm sát cùng cấp
quyết định việc chuyển vụ án để điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Cơ quan điều tra cùng cấp
xét thấy vụ án không thuộc thẩm quyền điều tra và đề nghị chuyển vụ án;
b) Cơ quan điều tra cấp trên
rút vụ án để điều tra;
c) Điều tra viên bị thay đổi
là Thủ trưởng Cơ quan điều tra;
d) Viện kiểm sát đã yêu cầu
chuyển vụ án mà Cơ quan điều tra không thực hiện.
2. Việc chuyển vụ án ra ngoài
phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu quyết định.
3. Thủ tục chuyển vụ án để
điều tra theo thẩm quyền:
a) Trong thời hạn 03 ngày kể
từ ngày nhận được đề nghị của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền
phải ra quyết định chuyển vụ án;
b) Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi ra quyết định chuyển vụ án, Viện kiểm sát phải gửi quyết định đó đến Cơ
quan điều tra đang điều tra vụ án, Cơ quan điều tra có thẩm quyền tiếp tục điều
tra vụ án, bị can hoặc người đại diện của bị can, người bào chữa, bị hại và
Viện kiểm sát có thẩm quyền.
4. Trong thời hạn 03 ngày kể
từ ngày nhận được quyết định chuyển vụ án, Cơ quan điều tra đang điều tra vụ
án có trách nhiệm chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiếp
tục điều tra.
5. Thời hạn điều tra được
tính tiếp từ ngày Cơ quan điều tra nhận được hồ sơ vụ án cho đến hết thời hạn
điều tra vụ án theo quy định của Bộ luật này. Trường hợp hết thời hạn điều tra
mà không thể kết thúc việc điều tra thì Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét,
quyết định gia hạn điều tra theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật này.
Điều 170. Nhập
hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra
1. Cơ quan điều tra có thể
nhập để tiến hành điều tra theo thẩm quyền trong cùng một vụ án khi thuộc một
trong các trường hợp:
a) Bị can phạm nhiều tội;
b) Bị can phạm tội nhiều lần;
c) Nhiều bị can
cùng thực hiện một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che
giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội
mà có.
2. Cơ quan điều tra chỉ được
tách vụ án trong trường hợp cần thiết khi không thể hoàn thành sớm việc điều
tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc
xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án.
3. Quyết định nhập hoặc tách
vụ án phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra
quyết định. Trường hợp không nhất trí với quyết định nhập hoặc tách vụ án của
Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ và nêu rõ lý do.
Điều 171. Ủy thác
điều tra
1. Khi cần thiết, Cơ quan điều
tra ủy thác cho Cơ quan điều tra khác tiến hành một số hoạt động điều tra.
Quyết định ủy thác điều tra phải ghi rõ yêu cầu và gửi cho Cơ quan điều tra
được ủy thác, Viện kiểm sát cùng cấp với Cơ quan điều tra được ủy thác.
2. Cơ quan điều tra được ủy
thác phải thực hiện đầy đủ những việc được ủy thác trong thời hạn mà Cơ quan
điều tra ủy thác yêu cầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thực
hiện ủy thác điều tra. Trường hợp không thực hiện được việc ủy thác thì phải có
ngay văn bản nêu rõ lý do gửi Cơ quan điều tra đã ủy thác.
3. Viện kiểm sát cùng cấp với
Cơ quan điều tra được ủy thác có trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tiến hành hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra được ủy thác và phải
chuyển ngay kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát việc ủy thác điều tra
cho Viện kiểm sát đã ủy thác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.
Điều 172. Thời hạn
điều tra
1. Thời hạn điều tra vụ án
hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng
đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết
thúc điều tra.
2. Trường hợp cần gia hạn điều
tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết
thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia
hạn điều tra.
Việc gia hạn điều tra được quy
định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm
trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm
trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và
lần thứ hai không quá 02 tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm
trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
3. Đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng mà thời hạn gia hạn điều tra đã hết nhưng do tính chất rất phức
tạp của vụ án mà chưa thể kết thúc việc điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng.
Đối với tội xâm phạm an ninh
quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm
một lần không quá 04 tháng.
4. Trường hợp thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, nhập vụ án thì tổng thời hạn điều tra
không vượt quá thời hạn quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.
5. Thẩm quyền gia hạn điều tra
của Viện kiểm sát:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm
trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia
hạn điều tra. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra
cấp quân khu thụ lý điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm
sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra;
b) Đối với tội phạm nghiêm
trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia
hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra
cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu thụ lý điều tra thì Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ
nhất và lần thứ hai;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm
trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia
hạn điều tra lần thứ nhất; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân
sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ hai. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều
tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu thụ lý điều tra thì Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ
nhất và lần thứ hai;
d) Đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp
quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai; Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương gia hạn điều tra lần thứ ba.
6. Trường hợp vụ án do Cơ quan
điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng, Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thụ lý điều tra thì việc gia hạn điều tra
thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự
trung ương.
Điều 173. Thời hạn tạm giam để
điều tra
1. Thời hạn tạm giam bị can để
điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03
tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Trường hợp vụ án có nhiều
tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và
không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10
ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị
Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Việc gia hạn tạm giam được quy
định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm
trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm
trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm
trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
3. Thẩm quyền gia hạn tạm giam
của Viện kiểm sát:
a) Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm
ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Trường hợp
vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu thụ lý
điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân
khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Trường hợp thời hạn gia hạn
tạm giam lần thứ nhất quy định tại điểm a khoản này đã hết mà chưa thể kết thúc
việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia
hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
4. Trường hợp vụ án do Cơ quan
điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng, Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thụ lý điều tra thì việc gia hạn tạm giam
thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự
trung ương.
5. Trường hợp cần thiết đối
với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao có quyền gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng. Trường hợp thời hạn gia
hạn tạm giam quy định tại khoản này đã hết mà chưa thể kết thúc việc điều tra
và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 01
tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 02 tháng đối với tội phạm rất
nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trường
hợp đặc biệt đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh
quốc gia mà không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc
điều tra.
6. Trường hợp cần thiết đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không phải là tội xâm phạm an ninh quốc gia
và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 04
tháng; trường hợp đặc biệt không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi
kết thúc việc điều tra.
7. Trong thời hạn tạm giam,
nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải
kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị
tạm giam hoặc xét thấy cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Khi đã hết thời hạn tạm giam
thì người bị tạm giam phải được trả tự do. Trường hợp xét thấy cần thiết thì
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Điều 174. Thời hạn
phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại
1. Trường hợp phục hồi điều
tra quy định tại Điều 235 của Bộ luật này thì thời hạn điều tra tiếp không quá
02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và không quá
03 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể
từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.
Trường hợp cần gia hạn điều tra
do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời
hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn
điều tra.
Việc gia hạn điều tra được quy
định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm
trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 01 tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm
trọng và tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không
quá 02 tháng;
c) Đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 03 tháng.
Thẩm quyền gia hạn điều tra
đối với từng loại tội phạm theo quy định tại khoản 5 Điều 172 của Bộ luật này.
2. Trường hợp vụ án do Viện
kiểm sát trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung
không quá 02 tháng; nếu do Tòa án trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời
hạn điều tra bổ sung không quá 01 tháng. Viện kiểm sát chỉ được trả lại hồ sơ
để điều tra bổ sung hai lần. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để
điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ
sung một lần.
Thời hạn điều tra bổ sung tính
từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra bổ sung.
3. Trường hợp vụ án được trả
lại để điều tra lại thì thời hạn điều tra và gia hạn điều tra thực hiện theo
quy định tại Điều 172 của Bộ luật này.
Thời hạn điều tra được tính từ
khi Cơ quan điều tra nhận hồ sơ và yêu cầu điều tra lại.
4. Khi phục hồi điều tra, điều
tra bổ sung, điều tra lại, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ
luật này.
Trường hợp có căn cứ theo quy
định của Bộ luật này cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi điều
tra, điều tra bổ sung không được quá thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ
sung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Thời hạn tạm giam và gia hạn
tạm giam trong trường hợp vụ án được điều tra lại thực hiện theo quy định tại
Điều 173 của Bộ luật này.
Điều 175. Giải
quyết yêu cầu, đề nghị của người tham gia tố tụng
1. Khi người tham gia tố tụng
có yêu cầu, đề nghị về những vấn đề liên quan đến vụ án thì Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát
trong phạm vi trách nhiệm của mình giải quyết yêu cầu, đề nghị đó và báo cho
họ biết kết quả. Trường hợp không chấp nhận yêu cầu, đề nghị thì Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc Viện
kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lý do.
2. Trường hợp không đồng ý với
kết quả giải quyết của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra hoặc Viện kiểm sát thì người tham gia tố tụng có
quyền khiếu nại. Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại được thực hiện theo quy
định tại Chương XXXIII của Bộ luật này.
Điều 176. Sự tham
dự của người chứng kiến
Người chứng kiến được triệu
tập để chứng kiến hoạt động điều tra trong các trường hợp do Bộ luật này quy
định.
Người chứng kiến có trách
nhiệm xác nhận nội dung, kết quả công việc mà người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng đã tiến hành trong khi mình có mặt và có thể nêu ý kiến cá nhân. Ý
kiến này được ghi vào biên bản.
Điều 177. Không
được tiết lộ bí mật điều tra
Trường hợp cần giữ bí mật điều
tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải yêu cầu
người tham gia tố tụng không được tiết lộ bí mật điều tra. Yêu cầu này được ghi
vào biên bản.
Điều tra viên, Cán bộ điều
tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, người tham gia tố tụng tiết lộ bí mật điều
tra thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.
Điều
178. Biên bản điều tra
Khi tiến hành hoạt động điều
tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản theo quy định
tại Điều 133 của Bộ luật này.
Điều tra viên, Cán bộ điều tra
lập biên bản phải đọc biên bản cho người tham gia tố tụng nghe, giải thích cho
họ quyền được bổ sung và nhận xét về biên bản. Ý kiến bổ sung, nhận xét được
ghi vào biên bản; trường hợp không chấp nhận bổ sung thì ghi rõ lý do vào biên
bản. Người tham gia tố tụng, Điều tra viên, Cán bộ điều tra cùng ký tên vào
biên bản.
Trường hợp Kiểm sát viên, Kiểm
tra viên lập biên bản thì biên bản được thực hiện theo quy định tại Điều này.
Biên bản phải được chuyển ngay cho Điều tra viên để đưa vào hồ sơ vụ án.
Việc lập biên bản trong giai
đoạn khởi tố được thực hiện theo quy định tại Điều này.
Chương XI
KHỞI TỐ BỊ CAN VÀ HỎI CUNG BỊ CAN
Điều
179. Khởi tố bị can
1. Khi có đủ căn cứ để xác
định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định
là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can.
2. Quyết định khởi tố bị can
ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ người ra quyết định;
họ tên, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, giới tính, chỗ ở,
nghề nghiệp của bị can; bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều, khoản nào của
Bộ luật hình sự; thời gian, địa điểm phạm tội và những tình tiết khác của tội
phạm.
Trường hợp bị can bị khởi tố
về nhiều tội khác nhau thì quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ từng tội danh
và điều, khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng.
3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi ra quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi tố
và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét
phê chuẩn. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị
can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định
khởi tố bị can hoặc yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ để quyết định
việc phê chuẩn và gửi ngay cho Cơ quan điều tra.
Trường hợp Viện kiểm sát yêu
cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được
chứng cứ, tài liệu bổ sung, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can.
4. Trường hợp phát hiện có
người đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm chưa bị khởi
tố thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can hoặc
trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can nếu đã yêu cầu nhưng Cơ quan điều tra
không thực hiện. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can,
Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
Sau khi nhận hồ sơ và kết luận
điều tra nếu Viện kiểm sát phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi mà Bộ
luật hình sự quy định là tội phạm trong vụ án chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát
ra quyết định khởi tố bị can và trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ
sung.
5. Sau khi nhận được quyết
định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định khởi tố bị can của
Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị can, quyết
định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị
can.
Sau khi nhận được quyết định
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải chụp ảnh, lập danh
bản, chỉ bản của người bị khởi tố và đưa vào hồ sơ vụ án.
Việc giao, nhận các quyết định
nêu trên được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.
Điều
180. Thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can
1. Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát thay đổi quyết định khởi tố bị can khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Khi tiến hành điều tra nếu
có căn cứ xác định hành vi của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố;
b) Quyết định khởi tố ghi
không đúng họ, tên, tuổi, nhân thân của bị can.
2. Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát phải bổ sung quyết định khởi tố bị can nếu có căn cứ xác định bị can còn
thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm.
3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều
tra phải gửi quyết định này và tài liệu có liên quan đến việc thay đổi hoặc bổ
sung đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn 03 ngày kể
từ ngày nhận được quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can,
Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định thay
đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can hoặc yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài
liệu làm căn cứ để quyết định việc phê chuẩn và gửi ngay cho Cơ quan điều tra.
Trường hợp Viện kiểm sát yêu
cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được
chứng cứ, tài liệu bổ sung, Viện kiểm sát ra quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị
can, Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
4. Sau khi nhận được quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can
của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định này cho người đã
bị khởi tố.
Việc giao, nhận các quyết định
nêu trên được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.
Điều 181. Tạm đình
chỉ chức vụ bị can đang đảm nhiệm
Khi xét thấy việc bị can tiếp
tục giữ chức vụ gây khó khăn cho việc điều tra thì Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát có quyền
kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý bị can tạm đình chỉ chức
vụ của bị can. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị, cơ quan,
tổ chức này phải trả lời bằng văn bản cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát đã kiến nghị biết.
Điều 182. Triệu
tập bị can
1. Khi triệu tập bị can, Điều
tra viên phải gửi giấy triệu tập. Giấy triệu tập bị can ghi rõ họ tên, chỗ ở
của bị can; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm có mặt, thời gian làm việc, gặp ai
và trách nhiệm về việc vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở
ngại khách quan.
2. Giấy triệu tập bị can được
gửi cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can cư trú hoặc cơ quan, tổ
chức nơi bị can làm việc, học tập. Cơ quan, tổ chức nhận được giấy triệu tập có
trách nhiệm chuyển ngay giấy triệu tập cho bị can.
Khi nhận giấy triệu tập, bị
can phải ký nhận và ghi rõ giờ, ngày nhận. Người chuyển giấy triệu tập phải
chuyển phần giấy triệu tập có ký nhận của bị can cho cơ quan đã triệu tập bị
can; nếu bị can không ký nhận thì lập biên bản về việc đó và gửi cho cơ quan
triệu tập bị can; nếu bị can vắng mặt thì có thể giao giấy triệu tập cho người
thân thích của bị can có đủ năng lực hành vi dân sự để ký xác nhận và chuyển
cho bị can.
3. Bị can phải có mặt theo
giấy triệu tập. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở
ngại khách quan hoặc có biểu hiện trốn tránh thì Điều tra viên có thể ra quyết
định áp giải.
4. Trường hợp cần thiết, Kiểm
sát viên có thể triệu tập bị can. Việc triệu tập bị can được tiến hành theo quy
định tại Điều này.
Điều 183. Hỏi cung bị can
1. Việc hỏi cung bị can do
Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi
cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó. Trước khi
hỏi cung bị can, Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào
chữa thời gian, địa điểm hỏi cung. Khi xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên tham
gia việc hỏi cung bị can.
2. Trước khi tiến hành hỏi
cung lần đầu, Điều tra viên phải giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa
vụ theo quy định tại Điều 60 của Bộ luật này. Việc này phải ghi vào biên bản.
Trường hợp vụ án có nhiều bị
can thì hỏi riêng từng người và không để họ tiếp xúc với nhau. Có thể cho bị
can viết bản tự khai của mình.
3. Không hỏi cung bị can vào
ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn được nhưng phải ghi rõ lý do vào
biên bản.
4. Kiểm sát viên hỏi cung bị
can trong trường hợp bị can kêu oan, khiếu nại hoạt động điều tra hoặc có căn
cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp khác khi xét
thấy cần thiết. Việc Kiểm sát viên hỏi cung bị can được tiến hành theo quy định
tại Điều này.
5. Điều tra viên, Cán bộ điều
tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên bức cung, dùng nhục hình đối với bị can thì
phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
6. Việc hỏi cung bị can tại cơ
sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Việc hỏi cung bị can tại địa
điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Điều 184. Biên bản
hỏi cung bị can
1. Mỗi lần hỏi cung bị can đều
phải lập biên bản.
Biên bản hỏi cung bị can được
lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này; phải ghi đầy đủ lời trình bày
của bị can, các câu hỏi và câu trả lời. Nghiêm cấm Điều tra viên, Cán bộ điều
tra tự mình thêm, bớt hoặc sửa chữa lời khai của bị can.
2. Sau khi hỏi cung, Điều
tra viên, Cán bộ điều tra phải đọc biên bản cho bị can nghe hoặc để bị can tự
đọc. Trường hợp bổ sung, sửa chữa biên bản thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra
và bị can cùng ký xác nhận. Nếu biên bản có nhiều trang thì bị can ký vào từng
trang biên bản. Trường hợp bị can viết bản tự khai thì Điều tra viên, Cán bộ
điều tra và bị can cùng ký xác nhận vào bản tự khai đó.
3. Trường hợp hỏi cung bị can
có người phiên dịch thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải giải thích quyền và
nghĩa vụ của người phiên dịch, đồng thời giải thích cho bị can biết quyền yêu
cầu thay đổi người phiên dịch; người phiên dịch phải ký vào từng trang của biên
bản hỏi cung.
Trường hợp hỏi cung bị can có
mặt người bào chữa, người đại diện của bị can thì Điều tra viên, Cán bộ điều
tra phải giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ trong khi
hỏi cung bị can. Bị can, người bào chữa, người đại diện cùng ký vào biên bản
hỏi cung. Trường hợp người bào chữa được hỏi bị can thì biên bản phải ghi đầy
đủ câu hỏi của người bào chữa và trả lời của bị can.
4. Trường hợp Kiểm sát viên
hỏi cung bị can thì biên bản được thực hiện theo quy định của Điều này. Biên
bản hỏi cung bị can được chuyển ngay cho Điều tra viên để đưa vào hồ sơ vụ án.
Chương XII
LẤY LỜI KHAI NGƯỜI LÀM CHỨNG,
NGƯỜI BỊ HẠI, NGUYÊN ĐƠN DÂN SỰ, BỊ ĐƠN DÂN SỰ, NGƯỜI CÓ QUYỀN LỢI, NGHĨA VỤ
LIÊN QUAN ĐẾN VỤ ÁN, ĐỐI CHẤT VÀ NHẬN DẠNG
Điều 185. Triệu
tập người làm chứng
1. Khi triệu tập người làm
chứng đến lấy lời khai, Điều tra viên phải gửi giấy triệu tập.
2. Giấy triệu tập người làm
chứng ghi rõ họ tên, chỗ ở hoặc nơi làm việc, học tập của người làm chứng;
giờ, ngày, tháng, năm và địa điểm có mặt; mục đích và nội dung làm việc, thời
gian làm việc; gặp ai và trách nhiệm về việc vắng mặt không vì lý do bất khả
kháng hoặc không do trở ngại khách quan.
3. Việc giao giấy triệu tập
được thực hiện như sau:
a) Giấy triệu tập được giao
trực tiếp cho người làm chứng hoặc thông qua chính quyền xã, phường, thị trấn
nơi người làm chứng cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc,
học tập. Trong mọi trường hợp, việc giao giấy triệu tập phải được ký nhận.
Chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người làm chứng cư trú hoặc cơ quan, tổ
chức nơi người làm chứng làm việc, học tập có trách nhiệm tạo điều kiện cho
người làm chứng thực hiện nghĩa vụ;
b) Giấy triệu tập người làm
chứng dưới 18 tuổi được giao cho cha, mẹ hoặc người đại diện khác của họ;
c) Việc giao giấy triệu tập
người làm chứng theo ủy thác tư pháp của nước ngoài được thực hiện theo quy
định tại khoản này và Luật tương trợ tư pháp.
4. Trường hợp cần thiết, Kiểm
sát viên có thể triệu tập người làm chứng để lấy lời khai. Việc triệu tập
người làm chứng được thực hiện theo quy định tại Điều này.
Điều 186. Lấy lời
khai người làm chứng
1. Việc lấy lời khai người làm
chứng được tiến hành tại nơi tiến hành điều tra, nơi cư trú, nơi làm việc hoặc
nơi học tập của người đó.
2. Nếu vụ án có nhiều người
làm chứng thì phải lấy lời khai riêng từng người và không để cho họ tiếp xúc,
trao đổi với nhau trong thời gian lấy lời khai.
3. Trước khi lấy lời khai,
Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải giải thích cho người làm chứng biết quyền
và nghĩa vụ của họ theo quy định tại Điều 66 của Bộ luật này. Việc này phải
ghi vào biên bản.
4. Trước khi hỏi về nội dung
vụ án, Điều tra viên phải hỏi về mối quan hệ giữa người làm chứng với bị can,
bị hại và những tình tiết khác về nhân thân của người làm chứng. Điều tra viên
yêu cầu người làm chứng trình bày hoặc tự viết một cách trung thực và tự nguyện
những gì họ biết về vụ án, sau đó mới đặt câu hỏi.
5. Trường hợp xét thấy việc
lấy lời khai của Điều tra viên không khách quan hoặc có vi phạm pháp luật hoặc
xét cần làm rõ chứng cứ, tài liệu để quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê
chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra hoặc để quyết định việc truy tố
thì Kiểm sát viên có thể lấy lời khai người làm chứng. Việc lấy lời khai người
làm chứng được tiến hành theo quy định tại Điều này.
Điều 187. Biên bản
ghi lời khai của người làm chứng
Biên bản ghi lời khai của
người làm chứng được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này.
Việc lấy lời khai của người
làm chứng có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Điều 188. Triệu tập, lấy lời khai
của bị hại, đương sự
Việc triệu tập, lấy lời khai
của bị hại, đương sự được thực hiện theo quy định tại các điều 185, 186 và
187 của Bộ luật này.
Việc lấy lời khai của bị hại,
đương sự có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Điều 189. Đối chất
1. Trường hợp có mâu thuẫn
trong lời khai giữa hai người hay nhiều người mà đã tiến hành các biện pháp
điều tra khác nhưng chưa giải quyết được mâu thuẫn thì Điều tra viên tiến hành
đối chất. Trước khi tiến hành đối chất, Điều tra viên phải thông báo cho Viện
kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc đối chất. Kiểm sát viên
phải có mặt để kiểm sát việc đối chất. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi
rõ vào biên bản đối chất.
2. Nếu có người làm chứng hoặc
bị hại tham gia thì trước khi đối chất Điều tra viên phải giải thích cho họ
biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo
gian dối. Việc này phải ghi vào biên bản.
3. Khi bắt đầu đối chất, Điều
tra viên hỏi về mối quan hệ giữa những người tham gia đối chất, sau đó hỏi họ
về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Sau khi nghe đối chất, Điều tra viên có thể
hỏi thêm từng người.
Trong quá trình đối chất, Điều
tra viên có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan; có thể để cho
những người tham gia đối chất hỏi lẫn nhau; câu hỏi và trả lời của những người
này phải ghi vào biên bản.
Chỉ sau khi những người tham
gia đối chất đã khai xong mới được nhắc lại những lời khai trước đó của họ.
4. Biên bản đối chất được lập
theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này. Việc đối chất có thể ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh.
5. Trường hợp cần thiết, Kiểm
sát viên có thể tiến hành đối chất. Việc đối chất được tiến hành theo quy định
tại Điều này.
Điều 190. Nhận dạng
1. Khi cần thiết, Điều tra
viên có thể đưa người, ảnh hoặc vật cho người làm chứng, bị hại hoặc bị can
nhận dạng.
Số người, ảnh hoặc vật đưa ra
để nhận dạng ít nhất phải là ba và bề ngoài phải tương tự nhau, trừ trường
hợp nhận dạng tử thi.
Trước khi tiến hành nhận dạng,
Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên
kiểm sát việc nhận dạng. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận dạng.
Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận dạng.
2. Những người sau đây phải
tham gia việc nhận dạng:
a) Người làm chứng, bị hại
hoặc bị can;
b) Người chứng kiến.
3. Nếu người làm chứng hoặc bị
hại là người nhận dạng thì trước khi tiến hành, Điều tra viên phải giải thích
cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo
gian dối. Việc này phải ghi vào biên bản.
4. Điều tra viên phải hỏi
trước người nhận dạng về những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ có
thể nhận dạng được.
Trong quá trình tiến hành nhận
dạng, Điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Sau khi người nhận dạng đã
xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì
Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc
điểm gì mà xác nhận được người, vật hay ảnh đó.
5. Biên bản nhận dạng được lập
theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình
trạng sức khỏe của người nhận dạng và của những người được đưa ra để nhận
dạng; đặc điểm của vật, ảnh được đưa ra để nhận dạng; các lời khai báo, trình
bày của người nhận dạng; điều kiện ánh sáng khi thực hiện nhận dạng.
Điều 191. Nhận
biết giọng nói
1. Khi cần thiết, Điều tra viên
có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận
biết giọng nói.
Số giọng nói được đưa ra để
nhận biết ít nhất phải là ba và phải có âm sắc, âm lượng tương tự nhau.
Trước khi tiến hành nhận biết
giọng nói, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm
sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm
sát việc nhận biết giọng nói. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào
biên bản nhận biết giọng nói.
2. Những người sau đây phải
tham gia việc nhận biết giọng nói:
a) Giám định viên về âm thanh;
b) Người được yêu cầu nhận
biết giọng nói;
c) Người được đưa ra để nhận
biết giọng nói, trừ trường hợp việc nhận biết giọng nói được thực hiện qua
phương tiện ghi âm;
d) Người chứng kiến.
3. Nếu người làm chứng, bị hại
được yêu cầu nhận biết giọng nói thì trước khi tiến hành, Điều tra viên phải
giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố
ý khai báo gian dối. Việc này phải ghi vào biên bản.
4. Điều tra viên phải hỏi
trước người được yêu cầu nhận biết giọng nói về những đặc điểm mà nhờ đó họ có
thể nhận biết được giọng nói.
Trong quá trình tiến hành nhận
biết giọng nói, Điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Sau khi người được
yêu cầu nhận biết giọng nói đã xác nhận được tiếng nói trong số giọng nói được
đưa ra thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào đặc điểm gì
mà xác nhận giọng nói đó.
5. Biên bản nhận biết giọng
nói được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này. Biên bản ghi rõ nhân
thân, tình trạng sức khỏe của người được yêu cầu nhận biết giọng nói và của
những người được đưa ra để nhận biết giọng nói; đặc điểm của giọng nói được đưa
ra để nhận biết, lời trình bày của người nhận biết giọng nói; điều kiện về không
gian khi thực hiện nhận biết giọng nói.
Chương XIII
KHÁM XÉT, THU GIỮ, TẠM GIỮ TÀI LIỆU, ĐỒ VẬT
Điều 192. Căn cứ khám xét
người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín,
bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử
1. Việc khám xét người, chỗ ở,
nơi làm việc, địa điểm, phương tiện chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận
định trong người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện có công cụ, phương
tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, dữ
liệu điện tử, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.
Việc khám xét chỗ ở, nơi làm
việc, địa điểm, phương tiện cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị
truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân.
2. Khi có căn cứ để nhận định
trong thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử có công cụ, phương
tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản liên quan đến vụ án thì có thể khám
xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử.
Điều 193. Thẩm
quyền ra lệnh khám xét
1. Những người có thẩm
quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét.
Lệnh khám xét của những người được quy định tại khoản 2 Điều 35 và điểm a khoản
1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn
trước khi thi hành.
2. Trong trường hợp khẩn cấp,
những người có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có
quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xét xong, người ra
lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện
kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc, vụ
án.
3. Trước khi tiến hành khám
xét, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian và
địa điểm tiến hành khám xét để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc khám xét,
trừ trường hợp khám xét khẩn cấp. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc
khám xét. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản khám
xét.
4. Mọi trường hợp khám xét đều
được lập biên bản theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này và đưa vào hồ sơ
vụ án.
Điều 194. Khám xét
người
1. Khi bắt đầu khám xét người,
người thi hành lệnh khám xét phải đọc lệnh và đưa cho người bị khám xét đọc
lệnh đó; giải thích cho người bị khám xét và những người có mặt biết quyền và
nghĩa vụ của họ.
Người tiến hành khám xét phải
yêu cầu người bị khám xét đưa ra các tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án,
nếu họ từ chối hoặc đưa ra không đầy đủ các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ
án thì tiến hành khám xét.
2. Việc khám xét người phải do
người cùng giới thực hiện và có người khác cùng giới chứng kiến. Việc khám xét
không được xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của
người bị khám xét.
3. Có thể tiến hành khám xét
người mà không cần có lệnh trong trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để
khẳng định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người vũ khí, hung khí,
chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án.
Điều 195. Khám xét
chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện
1. Khi khám xét chỗ ở thì phải
có mặt người đó hoặc người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở, có đại diện
chính quyền xã, phường, thị trấn và người chứng kiến; trường hợp người đó,
người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc vì lý
do khác họ không có mặt mà việc khám xét không thể trì hoãn thì việc khám xét
vẫn được tiến hành nhưng phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn
nơi khám xét và hai người chứng kiến.
Không được bắt đầu việc khám
xét chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp nhưng phải ghi rõ lý do vào biên
bản.
2. Khi khám xét nơi làm việc
của một người thì phải có mặt người đó, trừ trường hợp không thể trì hoãn nhưng
phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Việc khám xét nơi làm việc
phải có đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Trong
trường hợp không có đại diện cơ quan, tổ chức thì việc khám xét vẫn được tiến
hành nhưng phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét và 02
người chứng kiến.
3. Khi khám xét địa điểm phải
có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét và người chứng kiến.
4. Việc khám xét phương tiện
phải có mặt chủ sở hữu hoặc người quản lý phương tiện và người chứng kiến.
Trường hợp chủ sở hữu hoặc người quản lý phương tiện vắng mặt, bỏ trốn hoặc
vì lý do khác họ không có mặt mà việc khám xét không thể trì hoãn thì
việc khám xét vẫn được tiến hành nhưng phải có hai người chứng kiến.
Khi khám xét phương tiện có
thể mời người có chuyên môn liên quan đến phương tiện tham gia.
5. Khi tiến hành khám xét chỗ
ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, những người có mặt không được tự ý rời
khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với những
người khác cho đến khi khám xét xong.
Điều 196. Thu giữ
phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử
1. Việc thu giữ phương tiện
điện tử, dữ liệu điện tử do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện và
có thể mời người có chuyên môn liên quan tham gia. Trường hợp không thể thu giữ
được thì phải sao lưu vào phương tiện lưu trữ và thu giữ như đối với vật
chứng.
2. Khi thu giữ các phương tiện
điện tử có thể thu thiết bị ngoại vi kèm theo và các tài liệu có liên quan.
Điều 197. Thu giữ thư tín,
điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông
1. Khi cần thiết phải thu giữ
thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn
thông thì Cơ quan điều tra ra lệnh thu giữ. Lệnh này phải được Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
2. Trường hợp không thể trì
hoãn việc thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại cơ quan, tổ chức
bưu chính, viễn thông thì Cơ quan điều tra có thể tiến hành thu giữ nhưng phải
ghi rõ lý do vào biên bản. Sau khi thu giữ phải thông báo ngay cho Viện kiểm
sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc thu giữ để xét
phê chuẩn.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc thu giữ thư
tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn
hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn
thì người đã ra lệnh thu giữ phải trả lại ngay cho cơ quan, tổ chức bưu chính,
viễn thông, đồng thời thông báo cho người có thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu
phẩm bị thu giữ biết.
3. Người thi hành lệnh phải
thông báo cho người phụ trách cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông hữu quan
trước khi tiến hành thu giữ. Người quản lý cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn
thông hữu quan phải tạo điều kiện để người thi hành lệnh thu giữ hoàn thành
nhiệm vụ.
Khi thu giữ thư tín, điện tín,
bưu kiện, bưu phẩm, phải có đại diện của cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông
chứng kiến và ký xác nhận vào biên bản.
Cơ quan ra lệnh thu giữ phải
thông báo cho người có thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ biết.
Nếu việc thông báo cản trở điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, cơ
quan ra lệnh thu giữ phải thông báo ngay.
Điều 198. Tạm giữ
tài liệu, đồ vật khi khám xét
1. Khi khám xét, Điều tra viên
được tạm giữ đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án.
Đối với đồ vật thuộc loại cấm tàng trữ, lưu hành thì phải thu giữ và chuyển
ngay cho cơ quan quản lý có thẩm quyền. Trường hợp cần thiết phải niêm phong
thì tiến hành trước mặt chủ sở hữu đồ vật, người quản lý đồ vật, người chứng
kiến, đại diện gia đình, đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét.
2. Việc tạm giữ tài liệu, đồ
vật khi tiến hành khám xét được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ
luật này. Biên bản tạm giữ được lập thành bốn bản, trong đó một bản giao cho
người chủ tài liệu, đồ vật hoặc người quản lý tài liệu, đồ vật, một bản đưa vào
hồ sơ vụ án, một bản giao cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản giao cho cơ
quan quản lý tài liệu, đồ vật bị tạm giữ.
Điều 199. Trách nhiệm bảo quản
phương tiện, tài
liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị
thu giữ, tạm giữ hoặc bị niêm phong
1. Phương tiện, tài liệu, đồ
vật, dữ liệu điện tử, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ, tạm giữ
hoặc bị niêm phong phải được bảo quản nguyên vẹn.
2. Người nào phá hủy niêm
phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc hủy hoại phương tiện,
tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm thì
phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
Điều 200. Trách nhiệm của
người ra lệnh, người thi hành lệnh khám xét, thu giữ, tạm giữ
Người ra lệnh, người thi hành
lệnh khám xét, thu giữ, tạm giữ trái pháp luật thì tùy tính chất, mức độ vi
phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
luật.
Chương XIV
KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG, KHÁM
NGHIỆM TỬ THI, XEM XÉT DẤU VẾT TRÊN THÂN THỂ, THỰC NGHIỆM ĐIỀU TRA
Điều 201. Khám
nghiệm hiện trường
1. Điều tra viên chủ trì tiến
hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm để phát hiện dấu vết của
tội phạm, thu giữ vật chứng, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử khác liên quan
và làm sáng tỏ những tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án.
2. Trước khi tiến hành khám
nghiệm hiện trường, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp
biết về thời gian, địa điểm tiến hành khám nghiệm để cử Kiểm sát viên kiểm
sát khám nghiệm hiện trường. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc
khám nghiệm hiện trường.
Khi khám nghiệm hiện trường
phải có người chứng kiến; có thể cho bị can, người bào chữa, bị hại, người làm
chứng tham gia và mời người có chuyên môn tham dự việc khám nghiệm.
3. Khi khám nghiệm hiện trường
phải tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô hình; xem
xét tại chỗ và thu lượm dấu vết của tội phạm, tài liệu, đồ vật có liên quan đến
vụ án; ghi rõ kết quả khám nghiệm vào biên bản. Biên bản khám nghiệm hiện
trường được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này.
Trường hợp không thể xem xét
ngay được thì tài liệu, đồ vật thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên trạng
hoặc niêm phong đưa về nơi tiến hành điều tra.
Điều 202. Khám nghiệm tử thi
1. Việc khám nghiệm tử thi do
giám định viên pháp y tiến hành dưới sự chủ trì của Điều tra viên và phải có người chứng kiến.
Trước khi khám nghiệm tử thi, Điều tra
viên phải thông
báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết về thời gian và địa điểm tiến hành khám nghiệm để cử
Kiểm sát viên kiểm sát việc khám nghiệm tử thi. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm
sát việc khám nghiệm tử thi.
2. Giám định viên kỹ thuật
hình sự có thể được mời tham gia khám nghiệm tử thi để phát hiện, thu thập
dấu vết phục vụ việc giám định.
3. Khi khám nghiệm tử thi phải
tiến hành chụp ảnh, mô tả dấu vết để lại trên tử thi; chụp ảnh, thu thập, bảo
quản mẫu vật phục vụ công tác trưng cầu giám định; ghi rõ kết quả khám nghiệm
vào biên bản. Biên
bản khám nghiệm tử thi được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này.
4. Trường hợp cần khai quật tử
thi thì phải có quyết định của Cơ quan điều tra và thông báo cho người thân
thích của người chết biết trước khi tiến hành. Trường hợp người chết không có
hoặc không xác định được người thân thích của họ thì thông báo cho đại diện
chính quyền xã, phường, thị trấn nơi chôn cất tử thi biết.
Điều 203. Xem xét
dấu vết trên thân thể
1. Khi cần thiết, Điều tra
viên tiến hành xem xét dấu vết của tội phạm hoặc các dấu vết khác có ý nghĩa
đối với việc giải quyết vụ án trên thân thể người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị hại, người làm chứng.
Trong trường hợp cần thiết thì Cơ quan điều tra trưng cầu giám định.
2. Việc xem xét dấu vết trên
thân thể phải do người cùng giới tiến hành và phải có người cùng giới chứng
kiến. Trường hợp cần thiết thì có thể mời bác sĩ tham gia.
Nghiêm cấm xâm phạm sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của người bị xem xét dấu vết trên thân thể.
Khi xem xét dấu vết trên
thân thể phải lập biên bản mô tả dấu vết để lại trên thân thể; trường hợp cần
thiết phải chụp ảnh, trưng cầu giám định. Biên bản xem xét dấu vết trên
thân thể được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này.
Điều 204. Thực nghiệm điều tra
1. Để kiểm tra, xác minh tài
liệu, tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra có
thể thực nghiệm điều tra bằng cách dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình
huống hoặc những tình tiết khác của một sự việc nhất định và tiến hành các
hoạt động thực nghiệm cần thiết. Khi thực nghiệm điều tra phải đo đạc, chụp
ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ, ghi rõ kết quả thực nghiệm điều tra vào biên bản.
Nghiêm cấm việc thực nghiệm
điều tra xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của
người tham gia thực nghiệm điều tra và người khác.
2. Trước khi tiến hành thực
nghiệm điều tra, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết
về thời gian và địa điểm tiến hành thực nghiệm điều tra. Kiểm sát viên phải có
mặt để kiểm sát việc thực nghiệm điều tra. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải ghi rõ vào biên
bản.
3. Điều tra viên chủ trì tiến
hành thực nghiệm điều tra và việc thực nghiệm điều tra phải có người chứng
kiến.
Khi tiến hành thực nghiệm điều
tra, Cơ quan điều tra có thể mời người có chuyên môn tham gia. Trường hợp cần
thiết, người bị tạm giữ, bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng có thể
tham gia.
4. Trường hợp cần thiết, Viện
kiểm sát tiến hành thực nghiệm điều tra. Việc thực nghiệm điều tra được tiến
hành theo quy định tại Điều này.
Chương XV
GIÁM ĐỊNH VÀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
Điều 205. Trưng
cầu giám định
1. Khi thuộc một trong các
trường hợp quy định tại Điều 206 của Bộ luật này hoặc khi xét thấy cần thiết
thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định.
2. Quyết định trưng cầu giám
định có các nội dung:
a) Tên cơ quan trưng cầu giám
định; họ tên người có thẩm quyền trưng cầu giám định;
b) Tên tổ chức; họ tên người
được trưng cầu giám định;
c) Tên và đặc điểm của đối
tượng cần giám định;
d) Tên tài liệu có liên quan
hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo (nếu có);
đ) Nội dung yêu cầu giám định;
e) Ngày, tháng, năm trưng cầu
giám định và thời hạn trả kết luận giám định.
3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi ra quyết định trưng cầu giám định, cơ quan trưng cầu giám định phải giao
hoặc gửi quyết định trưng cầu giám định, hồ sơ, đối tượng trưng cầu giám định
cho tổ chức, cá nhân thực hiện giám định; gửi quyết định trưng cầu giám định
cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.
Điều 206. Các
trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định
Bắt buộc phải trưng cầu
giám định khi cần xác định:
1. Tình trạng tâm thần của
người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ;
tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả
năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án;
2. Tuổi của bị can, bị cáo, bị
hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu
để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những
tài liệu đó;
3. Nguyên nhân chết người;
4. Tính chất thương tích, mức
độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động;
5. Chất ma tuý, vũ khí quân
dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim
khí quý, đá quý, đồ cổ;
6. Mức độ ô nhiễm môi trường.
Điều 207. Yêu cầu
giám định
1. Đương sự hoặc người đại
diện của họ có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu
giám định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trừ
trường hợp việc giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của
người bị buộc tội.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ
ngày nhận được văn bản đề nghị, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, ra
quyết định trưng cầu giám định. Trường hợp không chấp nhận đề nghị thì thông
báo cho người đã đề nghị giám định biết bằng văn bản và nêu rõ lý do. Hết thời
hạn này hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định của cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì người đề nghị giám định có quyền tự
mình yêu cầu giám định.
2. Người yêu cầu giám định có
các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật giám định tư pháp.
Điều 208. Thời hạn
giám định
1. Thời hạn giám định đối với
trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định:
a) Không quá 03 tháng đối với
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 206 của Bộ luật này;
b) Không quá 01 tháng đối với
trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 6 Điều 206 của Bộ luật này;
c) Không quá 09 ngày đối với
trường hợp quy định tại các khoản 2, 4 và 5 Điều 206 của Bộ luật này.
2. Thời hạn giám định đối với
các trường hợp khác thực hiện theo quyết định trưng cầu giám định.
3. Trường hợp việc giám định
không thể tiến hành trong thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì
tổ chức, cá nhân tiến hành giám định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu
rõ lý do cho cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định.
4. Thời hạn giám định quy định
tại Điều này cũng áp dụng đối với trường hợp giám định bổ sung, giám định lại.
Điều 209. Tiến hành giám định
1. Việc giám định có
thể tiến hành tại cơ quan giám định hoặc tại nơi tiến hành điều tra vụ án ngay
sau khi có quyết định trưng cầu, yêu cầu giám định.
Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán, người yêu cầu giám định có thể tham dự giám định nhưng phải báo
trước cho người giám định biết.
2. Việc giám định do
cá nhân hoặc do tập thể thực hiện.
Điều 210. Giám
định bổ sung
1. Việc giám định bổ sung được
tiến hành trong trường hợp:
a) Nội dung kết luận giám định
chưa rõ, chưa đầy đủ;
b) Khi phát sinh vấn đề mới
cần phải giám định liên quan đến tình tiết của vụ án đã có kết luận giám định
trước đó.
2. Việc giám định bổ sung có
thể do tổ chức, cá nhân đã giám định hoặc tổ chức, cá nhân khác thực hiện.
3. Việc trưng cầu, yêu cầu
giám định bổ sung được thực hiện như giám định lần đầu.
Điều 211. Giám
định lại
1. Việc giám định lại được
thực hiện khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác. Việc giám
định lại phải do người giám định khác thực hiện.
2. Cơ quan trưng cầu giám định
tự mình hoặc theo đề nghị của người tham gia tố tụng quyết định việc trưng cầu
giám định lại. Trường hợp người trưng cầu giám định không chấp nhận yêu cầu
giám định lại thì phải thông báo cho người đề nghị giám định bằng văn bản và
nêu rõ lý do.
3. Trường hợp có sự khác nhau
giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung
giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết
định. Việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện theo
quy định của Luật giám định tư pháp.
Điều 212. Giám
định lại trong trường hợp đặc biệt
Trường hợp đặc biệt, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết
định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định. Việc
giám định lại trong trường hợp đặc biệt phải do Hội đồng mới thực hiện, những
người đã tham gia giám định trước đó không được giám định lại. Kết luận giám
định lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án.
Điều 213. Kết luận
giám định
1. Kết luận giám định phải ghi
rõ kết quả giám định đối với những nội dung đã được trưng cầu, yêu cầu và những
nội dung khác theo quy định của Luật giám định tư pháp.
2. Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi ra kết luận giám định, tổ chức, cá nhân đã tiến hành giám định phải gửi kết
luận giám định cho cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám định.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi nhận được kết luận giám định, cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám định
phải gửi kết luận giám định cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra.
3. Để làm sáng tỏ nội dung kết
luận giám định, cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định có quyền yêu cầu tổ
chức, cá nhân đã tiến hành giám định giải thích kết luận giám định; hỏi thêm
người giám định về những tình tiết cần thiết.
Điều 214. Quyền của bị can, bị
cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác đối với kết luận giám định
1. Trong thời hạn 07 ngày kể
từ ngày nhận được đề nghị trưng cầu giám định của bị can, bị cáo, bị hại, người
tham gia tố tụng khác, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, ra
quyết định trưng cầu giám định.
2. Trong thời hạn 07 ngày kể
từ ngày nhận được kết luận giám định thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng phải thông báo kết luận giám định cho bị can, bị cáo, bị hại, người
tham gia tố tụng khác có liên quan.
3. Bị can, bị cáo, bị hại,
người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến của mình về kết luận giám
định; đề nghị giám định bổ sung hoặc giám định lại. Trường hợp họ trình bày
trực tiếp thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải lập biên bản.
4. Trường hợp Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án không chấp nhận đề nghị của bị can, bị cáo, bị hại,
người tham gia tố tụng khác thì phải thông báo cho người đề nghị bằng văn bản
và nêu rõ lý do.
Điều 215. Yêu cầu
định giá tài sản
1. Khi cần xác định giá của
tài sản để giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra
văn bản yêu cầu định giá tài sản.
2. Văn bản yêu cầu định giá
tài sản có các nội dung:
a) Tên cơ quan yêu cầu định
giá; họ tên người có thẩm quyền yêu cầu định giá;
b) Tên Hội đồng định giá tài
sản được yêu cầu;
c) Thông tin và đặc điểm của
tài sản cần định giá;
d) Tên tài liệu có liên quan
(nếu có);
đ) Nội dung yêu cầu định giá
tài sản;
e) Ngày, tháng, năm yêu cầu
định giá tài sản, thời hạn trả kết luận định giá tài sản.
3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi ra văn bản yêu cầu định giá tài sản, cơ quan yêu cầu định giá phải giao
hoặc gửi văn bản yêu cầu định giá tài sản, hồ sơ, đối tượng yêu cầu định giá
tài sản cho Hội đồng định giá tài sản được yêu cầu; gửi văn bản yêu cầu định
giá tài sản cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra.
4. Việc yêu cầu định giá tài
sản để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được thực hiện theo quy
định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Điều 216. Thời hạn
định giá tài sản
Việc định giá tài sản, trả kết
luận định giá tài sản thực hiện theo thời hạn nêu trong văn bản yêu cầu định
giá tài sản. Trường hợp việc định giá tài sản không thể tiến hành trong thời
hạn yêu cầu, Hội đồng định giá tài sản phải kịp thời thông báo bằng văn bản,
nêu rõ lý do cho cơ quan, người đã yêu cầu định giá biết.
Điều 217. Tiến
hành định giá tài sản
1. Việc định giá tài sản do
Hội đồng định giá tài sản tiến hành. Phiên họp định giá tài sản có thể thực
hiện tại nơi có tài sản được định giá hoặc nơi khác theo quyết định của Hội
đồng định giá tài sản.
Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán có thể tham dự phiên họp định giá tài sản nhưng phải báo trước cho
Hội đồng định giá tài sản biết; khi được sự đồng ý của Hội đồng định giá tài
sản thì có quyền đưa ra ý kiến.
2. Chính phủ quy định chi tiết
việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục
định giá tài sản.
Điều 218. Định giá
lại tài sản
1. Trường hợp có nghi ngờ kết
luận định giá lần đầu, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tự mình hoặc
theo đề nghị của người bị buộc tội, người tham gia tố tụng khác ra văn bản yêu
cầu định giá lại tài sản. Việc định giá lại tài sản do Hội đồng định giá tài
sản cấp trên trực tiếp thực hiện.
2. Trường hợp có mâu thuẫn
giữa kết luận định giá lần đầu và kết luận định giá lại về giá của tài sản cần
định giá, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định
giá lại lần thứ hai. Việc định giá lại lần thứ hai do Hội đồng định giá tài sản
có thẩm quyền thực hiện. Kết luận định giá lại trong trường hợp này được sử
dụng để giải quyết vụ án.
Điều 219. Định giá
tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn
Trường hợp tài sản cần định
giá bị thất lạc hoặc không còn thì việc định giá tài sản được thực hiện theo hồ
sơ của tài sản trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản cần
định giá.
Điều 220. Định giá
lại tài sản trong trường hợp đặc biệt
Trường hợp đặc biệt, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết
định việc định giá lại tài sản khi đã có kết luận định giá lại lần hai của Hội
đồng định giá tài sản. Việc định giá lại tài sản trong trường hợp đặc biệt phải
do Hội đồng mới thực hiện. Người đã tham gia định giá trước đó không được định
giá lại. Kết luận định giá lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết
vụ án.
Điều 221. Kết luận
định giá tài sản
1. Kết luận định giá tài sản
phải ghi rõ kết luận về giá của tài sản theo nội dung yêu cầu định giá và các
nội dung khác theo quy định của pháp luật.
2. Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi ra kết luận định giá tài sản, Hội đồng định giá tài sản phải gửi kết luận
cho cơ quan yêu cầu định giá tài sản, người yêu cầu định giá tài sản.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi nhận được kết luận định giá tài sản, cơ quan đã yêu cầu, người yêu cầu định
giá tài sản phải gửi kết luận định giá tài sản cho Viện kiểm sát thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra.
3. Để làm sáng tỏ nội dung kết
luận định giá tài sản, cơ quan yêu cầu định giá tài sản có quyền yêu cầu Hội
đồng định giá tài sản giải thích kết luận định giá; hỏi thêm Hội đồng định giá
tài sản về những tình tiết cần thiết.
Điều 222. Quyền của bị can, bị
cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác đối với kết luận định giá tài sản
1. Trong thời hạn 07 ngày kể
từ ngày nhận được đề nghị định giá tài sản của bị can, bị cáo, bị hại, người
tham gia tố tụng khác, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, ra
văn bản yêu cầu định giá tài sản.
2. Trong thời hạn 07 ngày kể
từ ngày nhận được kết luận định giá tài sản thì cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải thông báo kết luận định giá tài sản cho bị can, bị
cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác có liên quan.
3. Bị can, bị cáo, bị hại,
người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến của mình về kết luận định
giá; đề nghị định giá lại. Trường hợp họ trình bày trực tiếp thì Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải lập biên bản.
4. Trường hợp Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án không chấp nhận đề nghị của bị can, bị cáo, bị hại,
người tham gia tố tụng khác thì phải thông báo cho người đề nghị bằng văn bản
và nêu rõ lý do.
Chương XVI
BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA TỐ TỤNG ĐẶC BIỆT
Điều 223. Các biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt
Sau khi khởi tố vụ án, trong
quá trình điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng
các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt:
1. Ghi âm, ghi hình bí mật;
2. Nghe điện thoại bí mật;
3. Thu thập bí mật dữ liệu
điện tử.
Điều 224. Trường
hợp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
Có thể áp dụng biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt đối với các trường hợp:
1. Tội xâm phạm an ninh quốc
gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền;
2. Tội phạm khác có tổ chức
thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Điều 225. Thẩm quyền, trách
nhiệm quyết định và thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt
1. Thủ trưởng Cơ quan điều tra
cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu trở lên tự mình hoặc
theo yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện
kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra
tố tụng đặc biệt. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan
điều tra quân sự khu vực thụ lý, điều tra thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra
cấp huyện, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự khu vực đề nghị Thủ trưởng Cơ
quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu xem
xét, quyết định áp dụng.
2. Quyết định áp dụng biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt ghi rõ thông tin cần thiết về đối tượng bị áp
dụng, tên biện pháp được áp dụng, thời hạn, địa điểm áp dụng, cơ quan tiến hành
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều
132 của Bộ luật này.
3. Quyết định áp dụng biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê
chuẩn trước khi thi hành. Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng
có trách nhiệm kiểm tra chặt chẽ việc áp dụng biện pháp này, kịp thời đề nghị
Viện kiểm sát hủy bỏ nếu xét thấy không còn cần thiết.
Cơ quan chuyên trách trong
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân theo quy định của pháp luật có trách nhiệm
thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
4. Thủ trưởng Cơ quan điều
tra, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền và người thi hành quyết định áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải giữ bí mật.
Điều 226. Thời hạn
áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
1. Thời hạn áp dụng biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt không quá 02 tháng kể từ ngày Viện trưởng Viện kiểm
sát phê chuẩn. Trường hợp phức tạp có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều
tra theo quy định của Bộ luật này.
2. Chậm nhất là 10 ngày trước
khi hết thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, nếu xét thấy cần
gia hạn thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng phải có văn
bản đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn xem xét, quyết định việc gia
hạn.
Điều 227. Sử dụng thông tin,
tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
1. Thông tin, tài liệu thu
thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ được sử dụng vào việc
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; thông tin, tài liệu không
liên quan đến vụ án phải tiêu hủy kịp thời.
Nghiêm cấm sử dụng thông tin,
tài liệu, chứng cứ thu thập được vào mục đích khác.
2. Thông tin, tài liệu thu
thập được bằng việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có thể dùng làm
chứng cứ để giải quyết vụ án.
3. Cơ quan điều tra có trách
nhiệm thông báo ngay kết quả việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
cho Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn.
Điều 228. Hủy bỏ
việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
Viện trưởng Viện kiểm sát đã
phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
phải kịp thời hủy bỏ quyết định đó khi thuộc một trong các trường hợp:
1. Có đề nghị bằng văn bản của
Thủ trưởng Cơ quan điều tra có thẩm quyền;
2. Có vi phạm trong quá trình
áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt;
3. Không cần thiết tiếp tục áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
Chương XVII
TẠM ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA VÀ KẾT THÚC ĐIỀU TRA
Điều 229. Tạm đình
chỉ điều tra
1. Cơ quan điều tra ra quyết
định tạm đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Khi chưa xác định được bị
can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án.
Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định
truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra;
b) Khi có kết luận giám định
tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm
đình chỉ điều tra trước khi hết thời hạn điều tra;
c) Khi trưng cầu giám định,
yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả
nhưng đã hết thời hạn điều tra. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá
tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.
2. Trường hợp vụ án có nhiều
bị can mà lý do tạm đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có
thể tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
3. Trong thời hạn 02 ngày kể
từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi quyết
định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bào chữa hoặc người đại
diện của bị can; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền lợi của
họ.
Điều 230. Đình chỉ
điều tra
1. Cơ quan điều tra ra quyết
định đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Có một trong các
căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc
có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của
Bộ luật hình sự;
b) Đã hết thời hạn điều tra vụ
án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.
2. Quyết định đình chỉ điều
tra ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ điều
tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ
vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và những vấn đề khác có liên
quan.
Trường hợp vụ án có nhiều bị
can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể
đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
3. Trong thời hạn 15 ngày kể
từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án của Cơ quan
điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát
phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền;
nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định
đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu thấy đủ
căn cứ để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy
tố theo thời hạn, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật này.
Điều 231. Truy nã
bị can
1. Khi bị can trốn hoặc không
biết rõ bị can đang ở đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã bị
can.
2. Quyết định truy nã ghi rõ
họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của bị can, đặc điểm để nhận dạng bị
can, tội phạm mà bị can đã bị khởi tố và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều
132 của Bộ luật này; kèm theo ảnh bị can (nếu có).
Quyết định truy nã bị can được
gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo công khai để mọi người phát hiện,
bắt người bị truy nã.
3. Sau khi bắt được bị can
theo quyết định truy nã thì Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã phải ra
quyết định đình nã. Quyết định đình nã được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và
thông báo công khai.
Điều 232. Kết thúc
điều tra
1. Khi kết thúc điều tra, Cơ
quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra.
2. Việc điều tra kết thúc khi Cơ
quan điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận
điều tra và quyết định đình chỉ điều tra.
3. Bản kết luận điều tra ghi
rõ ngày, tháng, năm; họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra kết luận.
4. Trong thời hạn 02 ngày kể
từ ngày ra bản kết luận điều tra, Cơ quan điều tra phải giao bản kết luận điều
tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ
điều tra cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp; giao bản kết luận điều
tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can hoặc người đại
diện của bị can; gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình
chỉ điều tra cho người bào chữa; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Điều 233. Kết luận
điều tra trong trường hợp đề nghị truy tố
Trong trường hợp đề nghị truy
tố thì bản kết luận điều tra ghi rõ diễn biến hành vi phạm tội; chứng cứ xác
định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính
chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm giữ tài
liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi
phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án; lý do và căn cứ đề nghị
truy tố; tội danh, điều, khoản, điểm của Bộ luật hình sự được áp dụng; những ý
kiến đề xuất giải quyết vụ án.
Bản kết luận điều tra phải ghi
rõ ngày, tháng, năm ra kết luận; họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra kết
luận điều tra.
Điều 234. Kết luận
điều tra trong trường hợp đình chỉ điều tra
Trong trường hợp đình chỉ điều
tra thì bản kết luận điều tra ghi rõ diễn biến sự việc, quá trình điều tra, lý
do và căn cứ đình chỉ điều tra.
Bản kết luận điều tra phải ghi
rõ ngày, tháng, năm ra kết luận; họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra kết
luận điều tra.
Quyết định đình chỉ điều tra
ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra,
việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật
đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và các vấn đề khác có liên quan.
Điều 235. Phục hồi
điều tra
1. Khi có lý do để hủy bỏ
quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định tạm đình chỉ điều tra thì Cơ quan
điều tra ra quyết định phục hồi điều tra, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Nếu việc điều tra bị đình chỉ
theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 157 của Bộ luật này mà bị can không
đồng ý và yêu cầu điều tra lại thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát cùng cấp
ra quyết định phục hồi điều tra.
2. Trong thời hạn 02 ngày kể
từ ngày ra quyết định phục hồi điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định
này cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bào chữa hoặc người đại diện
của bị can; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ.
Ý KIẾN