Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn Quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ Luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi theo Luật sửa đổi Bộ Luật tố tụng dân sự
- Tải về sách Ebook Bộ luật Tố tụng dân sự và văn bản hướng dẫn, biễu mẫu kèm theo
- Bộ Luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn mới nhất
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
Số: 05/2012/NQ-HĐTP
|
Hà Nội, ngày 03 tháng 12 năm 2012
|
NGHỊ
QUYẾT
HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ
QUY ĐỊNH TRONG PHẦN THỨ HAI “THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM”
CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG THEO LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân;
Để thi hành
đúng và thống nhất các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án
tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân
sự ngày 29 tháng 3 năm 2011(sau đây viết
tắt là BLTTDS);
Sau khi có ý
kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ
Tư pháp,
QUYẾT
NGHỊ:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị quyết này hướng dẫn
thi hành một số quy định của BLTTDS nhằm bảo đảm thi hành đúng và thống nhất Phần
thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS.
Điều 2.
Quyền khởi kiện vụ án quy định tại Điều 161 của BLTTDS
Khi xét thấy cần khởi
kiện vụ án tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, thì cá nhân, cơ quan, tổ chức phải làm đơn khởi kiện theo đúng quy
định tại khoản 2 Điều 164 của BLTTDS và cần phân biệt như sau:
1. Đối với cá nhân có
đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác
làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn
phải ghi họ tên, địa chỉ của cá nhân đó. Đồng thời, ở phần cuối đơn, cá nhân đó
phải ký tên hoặc điểm chỉ.
2.
Đối với cá nhân là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không
mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự đã tham
gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng
của mình, thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án về
tranh chấp có liên quan đến hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự đó. Tại mục
tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của cá nhân
đó. Đồng thời, ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
3. Đối với cá nhân là
người chưa thành niên (trừ trường hợp được hướng dẫn tại khoản 2 Điều này),
người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,
thì người đại diện hợp pháp của họ (đại diện theo pháp luật) có thể tự mình
hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người
khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của người đại diện hợp pháp của cá
nhân đó. Đồng thời, ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên
hoặc điểm chỉ.
4.
Đối với cá nhân thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, 2 và 3 Điều này là người không biết chữ, không nhìn được, không thể tự mình làm đơn khởi kiện, không thể tự mình ký tên hoặc điểm
chỉ thì có thể nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án và phải có người làm
chứng. Người làm chứng phải ký xác nhận việc khởi kiện và nội dung khởi kiện
vào đơn khởi kiện trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân
cấp xã. Người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận trước mặt người
khởi kiện và người làm chứng.
“Người làm chứng” trong
trường hợp này phải là người có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự quy định
tại Điều 57 của BLTTDS.
5. Đối với cơ quan, tổ
chức, thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc
nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi
kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ tên, chức vụ của người
đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó. Đồng thời, ở phần cuối đơn, người
đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ
chức đó.
Trường hợp đại diện theo
pháp luật của cơ quan, tổ chức thực hiện việc khởi kiện vụ án, thì tại mục
“Tên, địa chỉ của người khởi kiện” sau khi ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ
chức, phải ghi họ tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của cơ quan,
tổ chức đó. Tại mục “Người khởi kiện” ở cuối đơn khởi kiện cần phải ghi tên của
cơ quan, tổ chức, ghi chức vụ của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ
chức; người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức ký tên, ghi họ, tên
của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức và đóng dấu của cơ quan,
tổ chức.
Trường hợp người đại
diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức ủy quyền cho người khác thực hiện việc
khởi kiện vụ án thì tại mục “Tên, địa chỉ của người khởi kiện” sau khi ghi tên,
địa chỉ của cơ quan, tổ chức, phải ghi họ tên, chức vụ của người đại diện theo
ủy quyền của cơ quan, tổ chức đó, văn bản ủy quyền (số, ngày, tháng, năm) và
chức danh của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức ủy quyền. Tại
mục “Người khởi kiện” ở cuối đơn khởi kiện cần phải ghi tên của cơ quan, tổ
chức, ghi dòng chữ “Người đại diện theo ủy quyền”; người đại diện theo ủy quyền
ký tên, ghi họ, tên của người đại diện theo ủy quyền và đóng dấu của cơ quan,
tổ chức.
Trường hợp văn phòng đại
diện, chi nhánh của pháp nhân thực hiện việc khởi kiện vụ án phát sinh từ giao
dịch do văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập thực hiện, thì tại mục “Tên, địa
chỉ của người khởi kiện” sau khi ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, phải
ghi họ tên, chức vụ của người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp
nhân, văn bản ủy quyền (số, ngày, tháng, năm) và chức danh của người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền. Tại mục “Người khởi kiện” ở cuối đơn
khởi kiện cần phải ghi tên của pháp nhân, ghi chức vụ của người đứng đầu văn
phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân; người đứng đầu văn phòng đại diện, chi
nhánh của pháp nhân ký tên; ghi họ, tên của người đứng đầu văn phòng đại diện,
chi nhánh của pháp nhân. Đóng dấu của pháp nhân hoặc đóng dấu của văn phòng đại
diện, chi nhánh của pháp nhân.
6. Khi xét thấy có đủ
điều kiện để thụ lý vụ án, thì việc xác định tư cách nguyên đơn trong vụ án
được thực hiện như sau:
a) Đối với trường hợp
được hướng dẫn tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, thì nguyên đơn trong vụ án
chính là người khởi kiện;
b) Đối với trường hợp
được hướng dẫn tại khoản 3 Điều này, thì nguyên đơn là người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Do
những người này không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, nên người đại diện
hợp pháp của họ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn tại Toà án;
c) Đối với cơ quan, tổ
chức được hướng dẫn tại khoản 5 Điều này, thì cơ quan, tổ chức khởi kiện là
nguyên đơn trong vụ án. Người đại diện theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền tham
gia tố tụng, thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức là nguyên
đơn đó.
Điều 3.
Quyền
khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi
ích công cộng và lợi ích của Nhà nước quy định tại Điều 162 của BLTTDS
1. Cơ quan, tổ chức có
quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi
ích của Nhà nước quy định tại khoản 3 Điều 162 của BLTTDS khi có đầy đủ các
điều kiện sau đây:
a) Cơ quan, tổ chức đó
có những nhiệm vụ, quyền hạn trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước,
quản lý xã hội về một lĩnh vực nhất định;
b) Lợi ích công cộng,
lợi ích của Nhà nước cần yêu cầu Toà án bảo vệ phải thuộc lĩnh vực do cơ quan,
tổ chức đó phụ trách.
Ví
dụ 1: Cơ quan Tài nguyên và Môi trường có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu
cầu Toà án buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi gây ô nhiễm môi trường
phải bồi thường thiệt hại, khắc phục sự cố gây ô nhiễm môi trường công cộng.
Ví dụ 2: Cơ quan Văn hoá
- Thông tin có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án buộc cá nhân, cơ
quan, tổ chức có hành vi xâm phạm di sản văn hoá thuộc sở hữu toàn dân phải bồi
thường thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra.
2. Khi xét thấy có đủ
điều kiện để thụ lý vụ án do cơ quan, tổ chức khởi kiện theo quy định tại Điều
162 của BLTTDS, thì việc xác định tư cách nguyên đơn trong vụ án được thực hiện
như sau:
a) Đối với trường hợp cơ
quan về dân số - gia đình và trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ khởi kiện vụ án về
hôn nhân và gia đình thì nguyên đơn là:
a1) Người được cơ quan
về dân số - gia đình và trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ khởi kiện vụ án để yêu cầu
Toà án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện
nghĩa vụ đó theo quy định tại khoản 3 Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia đình;
a2) Người con được cơ
quan về dân số - gia đình và trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ khởi kiện vụ án để
yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình;
a3)
Cha, mẹ được cơ quan về dân số - gia đình và trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ khởi
kiện vụ án để yêu cầu Toà án xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân
sự quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình.
b) Đối với trường hợp
công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở khởi kiện vụ án về tranh chấp lao động
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động, thì nguyên đơn
là tập thể người lao động có quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ;
c) Đối với trường hợp cơ
quan, tổ chức khởi kiện vụ án yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích
của Nhà nước, thì nguyên đơn chính là cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án.
Điều 4. Phạm vi khởi kiện quy định tại Điều 163 của
BLTTDS
Được coi là “nhiều quan
hệ pháp luật có liên quan với nhau” để giải quyết trong cùng một vụ án khi
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Việc giải quyết quan
hệ pháp luật này đòi hỏi phải giải quyết đồng thời quan hệ pháp luật khác;
Ví dụ: A khởi kiện yêu
cầu Toà án buộc B phải trả lại quyền sử dụng đất. Đồng thời, A khởi kiện yêu
cầu Toà án buộc C phải tháo dỡ công trình mà C đã xây dựng trên đất đó.
b) Việc giải quyết các
quan hệ pháp luật có cùng đương sự và về cùng loại tranh chấp quy định trong
một điều luật tương ứng tại một trong các điều 25, 27, 29 và 31 của BLTTDS.
Ví dụ: A khởi kiện yêu
cầu Toà án buộc B phải trả nợ 100 triệu đồng. Đồng thời, A còn khởi kiện yêu
cầu Toà án buộc B phải trả lại chiếc xe ôtô mà B thuê của A do đã hết thời hạn
cho thuê.
Điều 5.
Hình thức, nội dung đơn khởi kiện quy định tại Điều 164 của BLTTDS.
Để bảo đảm cho việc làm
đơn khởi kiện đúng và thống nhất, Toà án yêu cầu người khởi kiện làm đơn khởi
kiện theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị quyết này. Toà án phải niêm yết công
khai tại trụ sở Toà án mẫu đơn khởi kiện và hướng dẫn sử dụng mẫu đơn khởi
kiện.
Điều 6.
Tài
liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện
quy định tại Điều 165 của BLTTDS
Về nguyên tắc, khi gửi
đơn khởi kiện cho Toà án, người khởi kiện phải gửi kèm theo tài liệu, chứng cứ
để chứng minh họ là người có quyền khởi kiện và những yêu cầu của họ là có căn
cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, trong trường hợp vì lý do khách quan nên họ không
thể nộp ngay đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, thì họ phải nộp các tài liệu, chứng
cứ ban đầu chứng minh cho việc khởi kiện là có căn cứ. Các tài liệu, chứng cứ
khác, người khởi kiện phải tự mình bổ sung hoặc bổ sung theo yêu cầu của Toà án
trong quá trình giải quyết vụ án.
Ví dụ 1: Khi gửi đơn
khởi kiện cho Toà án yêu cầu giải quyết ly hôn (có đăng ký kết hôn hợp pháp),
nuôi con, chia tài sản, thì về nguyên tắc người khởi kiện phải gửi kèm theo đầy
đủ các tài liệu, chứng cứ về quan hệ hôn nhân, con, tài sản chung của vợ chồng;
nếu họ chưa thể gửi đầy đủ các tài liệu, chứng cứ này, thì cùng với đơn khởi
kiện, họ phải gửi bản sao giấy đăng ký kết hôn, bản sao giấy khai sinh của con
(nếu có tranh chấp về nuôi con).
Ví
dụ 2: Khi gửi đơn khởi kiện cho Toà án yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng,
thì người khởi kiện phải gửi kèm theo bản sao hợp đồng có tranh chấp, hoá đơn
thanh toán tiền, nhận tài sản, biên bản thanh lý,…; nếu họ chưa thể gửi đủ các
tài liệu, chứng cứ này, thì cùng với đơn khởi kiện họ phải gửi bản sao hợp
đồng.
Điều 7.
Thủ tục
nhận đơn khởi kiện quy định tại Điều
167 của BLTTDS
1. Toà án phải có sổ
nhận đơn để ghi ngày tháng năm nhận đơn của đương sự làm căn cứ xác định ngày
khởi kiện.
2. Toà án thực hiện thủ
tục nhận đơn của người khởi kiện như sau:
a)
Trường hợp người khởi kiện trực tiếp nộp đơn tại Toà án theo quy định tại điểm
a khoản 1 Điều 166 của BLTTDS, thì Toà án ghi ngày, tháng, năm người khởi kiện
nộp đơn vào sổ nhận đơn. Ngày khởi kiện được xác định là ngày nộp đơn.
b) Trường hợp đương sự
gửi đơn đến Toà án qua bưu điện theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 166 của
BLTTDS, thì Toà án ghi ngày, tháng, năm nhận đơn do bưu điện chuyển đến vào sổ nhận
đơn và ngày, tháng, năm đương sự gửi đơn theo ngày, tháng, năm có dấu bưu điện
nơi gửi đơn. Phong bì có dấu bưu điện phải được đính kèm đơn khởi kiện. Ngày
khởi kiện được xác định là ngày có dấu bưu điện nơi gửi. Trường hợp không xác
định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu điện trên phong bì, thì Toà án phải ghi
chú trong sổ nhận đơn là “không xác định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu
điện”. Trong trường hợp này, ngày khởi kiện được xác định là ngày Toà án nhận
được đơn do bưu điện chuyển đến.
c) Toà án phải ghi (hoặc
đóng dấu nhận đơn có ghi) ngày, tháng, năm nhận đơn vào góc trên bên trái của
đơn khởi kiện.
d) Việc giao nhận chứng
cứ do đương sự nộp hoặc gửi kèm theo đơn khởi kiện được thực hiện theo hướng
dẫn tại Điều 4 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định về “Chứng minh và chứng cứ”
của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự.
đ) Sau khi nhận đơn khởi kiện, Toà án phải cấp giấy báo
nhận đơn khởi kiện cho người khởi kiện; nếu Toà án nhận đơn khởi kiện gửi qua
bưu điện, thì Toà án gửi giấy báo nhận đơn khởi kiện để thông báo cho người
khởi kiện biết.
3. Ngay sau khi nhận được đơn khởi kiện, việc phân công
người xem xét đơn khởi kiện được thực hiện như sau:
a. Đối với Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Toà án cấp huyện), thì Chánh án hoặc Phó Chánh án
được Chánh án uỷ nhiệm phân công cho một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện;
b. Đối với Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là Toà án cấp tỉnh), thì Chánh án hoặc Phó Chánh án được Chánh án uỷ nhiệm, Chánh
Toà hoặc Phó Chánh toà được Chánh án uỷ quyền phân công cho một Thẩm phán xem
xét đơn khởi kiện.
4. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
đơn khởi kiện, Thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi kiện phải có một trong
các quyết định sau đây:
a) Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án, nếu vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của mình theo quy định tại Điều 171 của BLTTDS và hướng dẫn
tại Điều 10 của Nghị quyết này;
b) Chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và thông
báo bằng văn bản cho người khởi kiện biết. Thủ tục chuyển đơn khởi kiện được
thực hiện theo quy định tại Điều 37 của BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 10 Nghị
quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao hướng dẫn thi hành một
số quy định tại Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự
đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự;
c) Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu thuộc
một trong các trường hợp quy định tại Điều 168 của BLTTDS và hướng dẫn tại Điều
8 của Nghị quyết này và thông báo
bằng văn bản cho người khởi kiện biết.
Điều 8. Trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại
đơn khởi kiện quy định tại Điều 168 của BLTTDS
1. Người khởi kiện không có quyền khởi kiện là người
không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 161 và Điều 162 của BLTTDS
và hướng dẫn tại Điều 2 và Điều 3 của
Nghị quyết này.
Người khởi kiện không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân
sự là người không có khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự
hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự theo quy định tại Điều
57 của BLTTDS.
2. Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp các đương
sự có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định về các điều kiện để khởi kiện (kể
cả quy định về hình thức, nội dung đơn kiện), nhưng đương sự đã khởi kiện khi
còn thiếu một trong các điều kiện đó.
Ví dụ 1: Theo quy định tại Điều 135 của Luật Đất đai thì tranh
chấp đất đai phải qua thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
nơi có đất tranh chấp. Do đó, kể từ ngày 01-7-2004 (ngày Luật Đất đai có hiệu lực
thi hành), thì Tòa án chỉ xem xét, thụ lý tranh chấp đất đai khi tranh chấp đất
đó đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Trường hợp tranh
chấp đất đai chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, thì
Tòa án căn cứ vào quy định tại điểm d khoản 1 Điều 168 của BLTTDS để trả lại đơn khởi kiện và hướng dẫn đương sự tiến hành thủ tục hòa giải tại Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp.
Ví dụ 2: Trong đơn khởi kiện, nguyên đơn không ghi đúng địa
chỉ của bị đơn, mặc dù Toà án yêu cầu bổ sung nhưng đã quá thời hạn do Toà án
ấn định mà nguyên đơn vẫn không bổ sung được.
Ví dụ 3: Công ty A và Công ty B ký kết hợp đồng mua bán
hàng hóa, trong đó thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng Trọng
tài. Khi phát sinh tranh chấp hợp đồng, Công ty A khởi kiện Công ty B tại Tòa
án trước khi yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp. Tòa án xét thấy thỏa
thuận trọng tài giữa các bên là hợp pháp theo đúng quy định của Luật Trọng tài
thương mại thì Tòa án căn cứ vào quy định tại điểm d khoản 1 Điều 168 của
BLTTDS để trả lại đơn khởi kiện và hướng dẫn họ tiến
hành thủ tục giải quyết tranh chấp tại Trọng tài.
3. Khi xác định điều kiện khởi kiện vụ án dân sự mà
đối tượng khởi kiện là quyền sử dụng đất thì thực hiện như sau:
a) Đối với tranh chấp ai có quyền sử dụng đất thì phải tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định
tại Điều 135 của Luật Đất đai.
b) Đối với tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về
giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng
đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,… thì không phải tiến
hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp
nhưng vẫn phải thực hiện thủ tục hoà giải theo quy định của BLTTDS.
4.
Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án là trường hợp không thuộc
một trong các tranh chấp quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của BLTTDS.
5. Việc trả lại đơn khởi
kiện phải được Toà án thông báo bằng văn bản cho người khởi kiện và Viện kiểm
sát cùng cấp biết; trong đó cần ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện thuộc trường
hợp nào quy định tại khoản 1 Điều 168 của BLTTDS. Thông báo này có thể được
giao trực tiếp hoặc gửi cho người khởi kiện qua bưu điện. Việc giao hoặc gửi
thông báo này phải có sổ theo dõi.
6. Khoản 1 Điều 168 của BLTTDS đã bỏ căn cứ trả
lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết, vì vậy, Toà án không
được lấy lý do thời hiệu khởi kiện đã hết để trả lại đơn khởi kiện.
Trường hợp trước đây, Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu
khởi kiện đã hết mà đương sự có yêu cầu khởi kiện lại, thì Toà án thụ lý vụ
việc và đương sự phải nộp tiền tạm ứng án phí nếu không thuộc diện được miễn
theo quy định pháp luật.
Trường hợp đã có bản án, quyết định của Toà án bác yêu cầu hoặc đình chỉ
vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết, thì Toà án căn cứ điểm b khoản 1 Điều 168
của BLTTDS để trả lại đơn khởi kiện và giải thích cho họ biết họ có quyền làm
đơn đề nghị xem xét vụ việc theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản
án, quyết định nêu trên.
7. Người khởi kiện có
quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án khi thuộc một trong các trường hợp quy định
tại khoản 3 Điều 168 và các điểm c, e, g khoản 1 Điều 192 của BLTTDS và các văn
bản pháp luật có quy định.
"Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật” quy
định tại điểm d khoản 3 Điều 168 của BLTTDS là các trường hợp trong BLTTDS chưa
quy định nhưng đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc
sau khi BLTTDS có hiệu lực thi hành mới được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật được ban hành sau đó hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Ví dụ 1: Trường hợp
Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ thành theo quy định tại Điều 88 của Luật Hôn
nhân và Gia đình và đã ra quyết định công nhận sự thỏa thuận về việc hòa giải
đoàn tụ thành giữa các đương sự. Trong thời gian đoàn tụ, các đương sự lại phát
sinh mâu thuẫn và có đơn xin ly hôn yêu cầu Tòa án giải quyết, thì Tòa án căn
cứ vào Điều 85 của Luật Hôn nhân và Gia đình để thụ lý, giải quyết theo thủ tục
chung.
Ví dụ 2: Trường hợp Tòa
án đã bác đơn xin ly hôn của người chồng xin ly hôn vợ đang có thai hoặc đang
nuôi con dưới mười hai tháng tuổi, thì Tòa án chỉ thụ lý lại vụ án xin ly hôn
của người chồng khi đã đáp ứng đủ điều kiện khởi kiện quy định tại khoản 2 Điều
85 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Điều 9. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện quy định
tại Điều 169 của BLTTDS
1. Khi nhận đơn khởi kiện hoặc sau khi nhận đơn khởi
kiện, xét thấy đơn khởi kiện không có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều
164 của BLTTDS, thì tuỳ theo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện mà Toà án
yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong một thời hạn do
Toà án ấn định, nhưng không quá ba mươi ngày, kể từ ngày người khởi kiện nhận
được văn bản của Toà án yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Trong trường
hợp đặc biệt, Toà án có thể gia hạn thêm, nhưng không quá mười lăm ngày, kể từ
ngày kết thúc thời hạn do Toà án ấn định nêu trên.
2. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện phải được làm
bằng văn bản, trong đó phải nêu rõ những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung cho người
khởi kiện biết để họ thực hiện. Văn bản này có thể được giao trực tiếp hoặc gửi
cho người khởi kiện qua bưu điện. Việc giao hoặc gửi này phải có sổ theo dõi.
3. Thời gian thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi
kiện không tính vào thời hiệu khởi kiện. Ngày khởi kiện vẫn được xác định là
ngày nộp đơn khởi kiện, nếu người khởi kiện nộp trực tiếp tại Toà án hoặc ngày
có dấu bưu điện nơi gửi, nếu đơn khởi kiện được gửi qua bưu điện.
4. Sau khi người khởi kiện đã sửa
đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Toà án, thì Toà án tiếp tục việc
thụ lý vụ án theo thủ tục chung quy định tại Điều 171 của BLTTDS. Nếu hết thời
hạn do Toà án ấn định mà người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu
của Toà án, thì Toà án căn cứ vào khoản 2 Điều 169 của BLTTDS trả lại đơn khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ.
5. Trường hợp trong đơn khởi kiện không ghi đầy đủ cụ thể
hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện; tên, địa chỉ của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thì Toà án yêu cầu người khởi kiện ghi đầy đủ và
đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Nếu người khởi kiện không thực hiện, thì Toà án căn cứ vào khoản 2 Điều 169 của
BLTTDS trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ mà không
được thụ lý vụ án. Việc Toà án thụ lý vụ án để sau đó ra quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ án với lý do “chưa tìm được địa chỉ của bị đơn” là không đúng
quy định của BLTTDS, vì đây không phải là một trong những trường hợp Toà án ra
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 189 của BLTTDS. Toà
án cũng không được tự mình tiến hành thông báo tìm người bị kiện, vì đây là
nghĩa vụ của đương sự.
6. Đối với trường hợp trong đơn khởi kiện người khởi kiện
có ghi đầy đủ cụ thể và đúng địa chỉ của người bị kiện, của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 164 BLTTDS, hướng dẫn
tại Điều 5 của Nghị quyết này và Mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị quyết này nhưng họ không có nơi cư trú ổn định,
thường xuyên thay đổi nơi cư trú mà không thông báo địa chỉ mới cho người khởi
kiện, cho Toà án, nhằm mục đích giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người
khởi kiện, thì được coi là trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ. Toà án tiến hành thụ lý giải quyết vụ án
theo thủ tục chung.
7. Nếu người khởi kiện không biết
hoặc ghi không đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan để ghi trong đơn khởi kiện, thì họ phải thực hiện việc tìm địa chỉ
của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Điều 10. Thụ lý vụ án quy định tại Điều 171 của BLTTDS
1. Trong trường hợp người khởi kiện không nộp tiền tạm
ứng án phí trong thời hạn mười lăm ngày theo quy định tại khoản 2 Điều 171 của
BLTTDS vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì theo quy định tại khoản 1 Điều 161 của Bộ luật dân sự năm 2005,
thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào
thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí.
2. Tòa án phải ấn định cho người khởi kiện trong thời hạn
bảy ngày, sau khi hết thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của
Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp cho Tòa án
biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Hết thời hạn này người khởi kiện mới nộp cho
Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Hết thời hạn này người khởi kiện mới
nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, thì giải quyết như sau:
a) Trường hợp chưa trả lại đơn khởi
kiện, thì Thẩm phán tiến hành thụ lý vụ án;
b) Trường hợp đã trả lại đơn khởi kiện mà người khởi kiện
chứng minh được là họ đã nộp tiền tạm ứng án phí đúng thời hạn quy định, nhưng
vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên họ nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Toà án không đúng
hạn, thì Thẩm phán yêu cầu họ nộp lại đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ kèm
theo và tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
c) Trường hợp sau khi Toà án trả lại đơn khởi kiện, người
khởi kiện mới nộp tiền tạm ứng án phí và nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí
cho Toà án, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì được coi là nộp đơn khởi kiện lại,
Thẩm phán yêu cầu họ nộp lại đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ kèm theo và
tiến hành thụ lý lại vụ án theo thủ tục chung.
3. Hết thời hạn được hướng dẫn tại khoản 2 Điều này,
người khởi kiện không nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà
án thông báo cho họ biết về việc không thụ lý vụ án với lý do là họ không nộp
tiền tạm ứng án phí.
Điều 11.
Phân
công Thẩm phán giải quyết vụ án quy định tại Điều 172 của BLTTDS
1. Chánh án Toà án cấp
huyện có thể tự mình hoặc uỷ nhiệm cho một Phó Chánh án phân công Thẩm phán
giải quyết vụ án.
Chánh án Toà án cấp tỉnh
có thể uỷ nhiệm cho một Phó Chánh án hoặc uỷ quyền cho Chánh toà hoặc Phó Chánh
toà phân công Thẩm phán giải quyết vụ án.
2. Khi phân công Thẩm
phán giải quyết vụ án, thì cần tiếp tục phân công Thẩm phán đã thực hiện việc
xem xét đơn khởi kiện và thụ lý vụ án. Việc phân công này không phải ra quyết
định.
3. Đối với vụ án phức tạp, việc giải quyết có thể phải
kéo dài, thì cần phân công thêm Thẩm phán dự khuyết để bảo đảm xét xử liên tục.
Điều 12. Quyền yêu cầu phản tố của
bị đơn quy định tại Điều 176 của BLTTDS
1. Được coi là yêu cầu
phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, đối với người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nếu yêu cầu đó độc lập, không
cùng với yêu cầu mà nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập yêu cầu Toà án giải quyết.
Ví
dụ: Nguyên đơn A có đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn B phải trả lại tiền thuê nhà
còn nợ của năm 2005 là năm triệu đồng. Bị đơn B có yêu cầu đòi nguyên đơn A
phải thanh toán cho mình tiền sửa chữa nhà bị hư hỏng và tiền thuế sử dụng đất
mà bị đơn đã nộp thay cho nguyên đơn là ba triệu đồng. Trường hợp này, yêu cầu
của bị đơn B được coi là yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn A.
2. Chỉ coi là ý kiến của
bị đơn mà không phải là yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nếu bị đơn có yêu cầu cùng với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập (như yêu cầu Toà án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hoặc chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập).
Ví dụ: Nguyên đơn C có
đơn khởi kiện yêu cầu Toà án công nhận quyền sở hữu đối với một xe ô tô và buộc
bị đơn D trả lại cho mình xe ô tô đó. Bị đơn D có yêu cầu Toà án không công
nhận xe ô tô này thuộc sở hữu của C mà là của mình hoặc công nhận xe ô tô này
thuộc sở hữu chung của C và D. Trường hợp này, yêu cầu của bị đơn D không được
coi là yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn C.
3. Yêu cầu phản tố để bù
trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là trường hợp bị đơn có
nghĩa vụ đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập và nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cũng có nghĩa vụ đối với bị đơn; do đó, bị đơn có yêu cầu Toà án giải
quyết để bù trừ nghĩa vụ mà họ phải thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
Ví dụ: Xem ví dụ 1 khoản
1 Điều này.
4.
Yêu cầu phản tố của bị đơn dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn
bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố lại đối với
nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập và nếu
yêu cầu đó được chấp nhận, thì loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ
yêu cầu của nguyên đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vì không có căn cứ.
Ví dụ: A có chiếc xe ô tô
thuộc sở hữu riêng đã bán cho C, nhưng nói với con (B là con của A) là cho C
thuê mỗi tháng năm triệu đồng. Sau đó A chết, B khởi kiện yêu cầu C phải thanh
toán tiền thuê xe trong một năm qua là sáu mươi triệu đồng. C có yêu cầu phản
tố yêu cầu Toà án công nhận quyền sở hữu xe ô tô và có tranh chấp. Nếu Toà án
chấp nhận yêu cầu phản tố của C, thì dẫn đến không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
của B đòi C thanh toán tiền thuê xe ô tô.
5. Có sự liên quan giữa
yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu của nguyên đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là
trường hợp hai yêu cầu này có mối quan hệ với nhau và nếu được giải quyết trong
cùng một vụ án, thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh chóng
hơn.
Ví dụ: Chị M khởi kiện
yêu cầu anh N phải trợ cấp nuôi con P một tháng ba trăm ngàn đồng. Anh N có yêu
cầu phản tố yêu cầu Toà án xác định P không phải là con của anh.
Điều 13. Thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập quy định tại Điều 178 của
BLTTDS
1. Thủ tục yêu cầu phản
tố hoặc yêu cầu độc lập được thực hiện như thủ tục khởi kiện của nguyên đơn quy
định tại các điều 164, 165, 166, 167, 168, 169 và 170 của BLTTDS và hướng dẫn
tại các điều 5, 6, 7, 8 và 9 của Nghị quyết này.
2. Trong trường hợp Toà
án nhận được đơn về yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết trong cùng một vụ án, thì (thời
hạn chuẩn bị xét xử được xác định từ ngày hoàn thành thủ tục phản tố, yêu cầu
độc lập) ngày thụ lý vụ án để tính thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án đó được xác
định như sau:
a) Trường hợp bị đơn
hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được miễn hoặc không phải nộp tiền
tạm ứng án phí, án phí, thì ngày thụ lý vụ án là ngày Toà án nhận được đơn về
yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan cùng các tài liệu, chứng cứ kèm theo.
b) Trường hợp bị đơn
hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp tiền tạm ứng án phí, thì
ngày thụ lý vụ án là ngày bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
Ví
dụ: Ngày 15-3-2013, Toà án thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện vụ án của nguyên đơn
A. Toà án thông báo về việc thụ lý vụ án cho bị đơn B biết. Sau khi nhận được
thông báo, ngày 31-3-2013, bị đơn B có đơn yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn
A. Toà án tiến hành thủ tục xem xét đơn yêu cầu phản tố. Ngày 15-4-2013, bị đơn B nộp cho Toà án biên lai nộp tiền
tạm ứng án phí. Trong trường hợp này, ngày Toà án thụ lý vụ án được xác định
lại là ngày 15-4-2013 (Tòa án ghi chú lại ngày thụ lý vụ án trong sổ thụ lý vụ
án). Trong
trường hợp bị đơn B không phải nộp tiền tạm ứng án phí, thì ngày thụ lý vụ án
được xác định lại là ngày 31-3-2013.
c) Trường hợp có nhiều
bị đơn có yêu cầu phản tố hoặc có nhiều người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập, thì ngày thụ lý vụ án được xác định như sau:
c1) Là ngày Toà án nhận
được đơn về yêu cầu phản tố hoặc đơn về yêu cầu độc lập cuối cùng, nếu họ đều
thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí;
c2) Là ngày người nộp
cuối cùng cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, nếu họ thuộc trường hợp
phải nộp tiền tạm ứng án phí.
Điều 14.
Thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 179 của BLTTDS
Điều 179 của BLTTDS quy
định về thời hạn chuẩn bị xét xử; do đó, các thời hạn quy định trong Điều này
đều được tính trong thời hạn chuẩn bị xét xử. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, thời
hạn chuẩn bị xét xử được tính như sau:
1. Trường hợp có quyết
định đưa vụ án ra xét xử.
a) Nếu không phải gia
hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, thì thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày Toà án
thụ lý vụ án tối đa là:
-
Bốn tháng đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của BLTTDS;
- Hai
tháng đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của BLTTDS.
b) Nếu phải gia hạn thời
hạn chuẩn bị xét xử, thì thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày Toà án thụ lý vụ
án tối đa là:
- Sáu tháng đối với các
vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của BLTTDS;
- Ba tháng đối với các
vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31của BLTTDS.
c) Trong các trường hợp
được hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này mà phiên toà không được mở
trong thời hạn một tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử vì có lý
do chính đáng, thì thời hạn chuẩn bị xét xử đối với từng trường hợp được cộng
thêm tối đa là một tháng nữa.
2. Trường hợp có quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Trong trường hợp có
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, thì thời hạn chuẩn bị xét xử
kết thúc vào ngày ra quyết định tạm đình chỉ. Thời hạn chuẩn bị xét xử được bắt
đầu tính lại, kể từ ngày Toà án tiếp tục giải quyết vụ án khi lý do tạm đình
chỉ không còn nữa.
3. Về việc gia hạn thời
hạn chuẩn bị xét xử.
Đối
với những vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan quy định tại
điểm a và điểm b khoản 1 Điều 179 của BLTTDS mà thời hạn gần hết (thời hạn chuẩn
bị xét xử còn lại không quá năm ngày) mà Thẩm phán được phân công giải quyết vụ
án thấy rằng vụ án phức tạp nên chưa thể ra được một trong những quyết định quy
định tại khoản 2 Điều 179 của BLTTDS, thì cần phải báo ngay với Chánh án Toà án
để ra quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử. Việc gia hạn thời hạn chuẩn
bị xét xử không được quá thời hạn quy định tại đoạn cuối khoản 1 Điều 179 của
BLTTDS và hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều này. Hết thời hạn được gia hạn,
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra một trong những quyết định
quy định tại khoản 2 Điều 179 của BLTTDS.
a)
“Những vụ án có tính chất phức tạp” là những vụ án có nhiều đương sự, có liên
quan đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn với
nhau cần có thêm thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ
vụ án hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc cần phải giám định
kỹ thuật phức tạp; những vụ án mà đương sự là người nước ngoài đang ở nước
ngoài hoặc người Việt Nam đang cư trú, học tập, làm việc ở nước ngoài, tài sản
ở nước ngoài cần phải có thời gian uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự, ngoại
giao của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài,… Tuy nhiên, đối với
trường hợp cần phải chờ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, cần phải chờ kết quả
giám định kỹ thuật phức tạp hoặc cần phải chờ kết quả uỷ thác tư pháp mà đã hết
thời hạn chuẩn bị xét xử (kể cả thời gian gia hạn), thì Thẩm phán căn cứ vào
khoản 4 Điều 189 của BLTTDS ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
b) “Trở ngại khách quan”
là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động như: thiên tai, địch họa,
nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu,… làm cho Toà án không thể giải quyết được
vụ án trong thời hạn quy định.
Ví
dụ: Toà án nhân dân huyện X, tỉnh H ở miền núi đã có quyết định đưa vụ án ra
xét xử, trong đó đã ấn định ngày mở phiên toà. Tuy nhiên, còn hai ngày nữa là
tiến hành mở phiên toà, thì xảy ra lũ quét. Trụ sở của Toà án nhân dân huyện X
bị hư hỏng. Do phải khắc phục hậu quả của lũ quét, sửa chữa lại trụ sở, nên Toà
án nhân dân huyện X không thể tiến hành phiên toà trong thời hạn quy định.
c)
“Lý do chính đáng” quy định tại khoản 3 Điều 179 của BLTTDS được hiểu là các sự
kiện xảy ra một cách khách quan, không lường trước được như: cần phải có sự
thay đổi, phân công lại người tiến hành tố tụng có tên trong quyết định đưa vụ
án ra xét xử mà người có thẩm quyền chưa cử được người khác thay thế; vụ án có
tính chất phức tạp đã được xét xử nhiều lần ở nhiều cấp Toà án khác nhau, nên
không còn đủ Thẩm phán để tiến hành xét xử vụ án đó mà phải chuyển vụ án cho
Toà án cấp trên xét xử hoặc phải chờ biệt phái Thẩm phán từ Toà án khác đến,…
nên cản trở Toà án tiến hành phiên toà trong thời hạn quy định.
Điều 15.
Những vụ án dân sự không được hòa giải quy định tại Điều 181 của BLTTDS
1. “Tài sản của Nhà
nước” được hiểu là tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước quy định tại Điều
200 của Bộ luật dân sự năm 2005 và được điều chỉnh theo các quy định tại mục 1
Chương XIII của Bộ luật dân sự năm 2005.
“Yêu cầu đòi bồi thường
thiệt hại đến tài sản của Nhà nước” là trường hợp tài sản của Nhà nước bị thiệt
hại do hành vi trái pháp luật, do hợp đồng vô hiệu, do vi phạm nghĩa vụ dân sự,...
gây ra và người được giao chủ sở hữu đối với tài sản Nhà nước đó có yêu cầu đòi
bồi thường.
Khi thi hành quy định
tại khoản 1 Điều 181 của BLTTDS cần phân biệt:
a) Trường hợp tài sản
của Nhà nước được giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang quản lý, sử dụng
hoặc đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước thực hiện quyền sở hữu thông
qua cơ quan có thẩm quyền, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến loại
tài sản này, Toà án không được hoà giải để các bên đương sự thoả thuận với nhau
về việc giải quyết vụ án.
b)
Trường hợp tài sản của Nhà nước được Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước,
góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư của các chủ sở hữu khác
theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà doanh nghiệp được quyền tự
chủ chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản và chịu trách nhiệm trước Nhà
nước đối với tài sản đó trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thì khi có yêu
cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản đó, Toà án tiến hành hoà giải để các
bên đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
2.
Toà án không được hoà giải vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật
(giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật) hoặc trái đạo đức xã hội, nếu việc
hoà giải nhằm mục đích để các bên tiếp tục thực hiện các giao dịch đó. Trường
hợp các bên chỉ có tranh chấp về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu
do trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, thì Toà án vẫn phải tiến hành hoà
giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết hậu quả của giao
dịch vô hiệu đó.
Điều 16. Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được
quy định tại khoản 1 Điều 182 của BLTTDS
Trong trường hợp bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ
đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, thì Toà án lập biên bản về việc không
tiến hành hoà giải được do bị đơn vắng mặt và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử
theo thủ tục chung. Trong trường hợp tại phiên toà bị đơn có yêu cầu Toà án
hoãn phiên toà để tiến hành hoà giải, thì Toà án không chấp nhận, nhưng cần tạo
điều kiện cho các bên thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Điều 17. Thành phần phiên hòa giải quy định tại Điều 184
của BLTTDS
1. Toà án phải triệu tập tất cả
những người có liên quan đến việc giải quyết vụ án quy định tại khoản 3 Điều 64
và Điều 184 của BLTTDS tham dự phiên hoà giải.
2. Nếu việc hoà giải vụ án có liên quan đến tất cả các
đương sự trong vụ án mà có đương sự vắng mặt, thì Thẩm phán phải hoãn phiên hoà
giải để mở lại phiên hoà giải khác có mặt tất cả các đương sự. Thẩm phán thông báo
hoãn phiên hòa giải theo Mẫu số 06b ban hành kèm theo Nghị quyết này.
3. Nếu trong vụ án có nhiều quan hệ pháp luật mà quan hệ
pháp luật này liên quan đến đương sự này, quan hệ pháp luật kia liên quan đến
đương sự khác và việc giải quyết quan hệ pháp luật đó chỉ liên quan đến các
đương sự có mặt, không liên quan đến các đương sự vắng mặt, thì Thẩm phán tiến
hành hoà giải những vấn đề có liên quan đến các đương sự có mặt.
Trường hợp nêu trên mà
các đương sự có mặt thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, thì thoả
thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết
định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt.
Trường hợp thoả thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng
mặt, thì thoả thuận này chỉ có giá trị nếu đương sự vắng mặt tại phiên hoà giải
đồng ý bằng văn bản.
Trường
hợp trước khi tiến hành hòa giải đương sự vắng mặt đã có ý kiến bằng văn bản
nhưng sau khi kết thúc phiên hòa giải, nội dung hòa giải của các đương sự có
mặt khác với nội dung văn bản thể hiện ý chí của đương sự vắng mặt, thì Tòa án
phải lấy ý kiến bằng văn bản của đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải về thỏa
thuận của các đương sự tại phiên hòa giải. Thủ tục và thời hạn lấy ý kiến bằng
văn bản của đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Trường hợp đương sự đồng ý với kết quả hoà giải thì ngày nhận được ý kiến bằng
văn bản của đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải được xác định là ngày các
đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án.
Điều 18. Nội dung hòa giải quy định tại Điều 185 của BLTTDS
1. Toà án xem xét các yêu cầu cụ thể của đương sự trong
vụ án phải giải quyết để tiến hành hoà giải từng yêu cầu theo thứ tự hợp lý.
Ví dụ: Trong vụ án ly hôn, có cả
tranh chấp về nuôi con, chia tài sản thì Toà án cần hoà giải về quan hệ hôn
nhân trước, nếu hoà giải đoàn tụ không thành thì tiếp tục tiến hành hoà giải
việc nuôi con và sau đó hoà giải việc chia tài sản.
2. Khi tiến hành hoà giải, ngoài việc
tuân thủ nguyên tắc quy định tại Điều 184 của BLTTDS, tùy theo các quan hệ pháp
luật Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có
liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của
mình mà tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; phân tích hậu
quả pháp lý của việc hoà giải thành cho các đương sự biết (như mối quan hệ giữa
các đương sự, việc chịu án phí,…). Thẩm phán không được nói trước với các đương
sự ai sai, ai đúng ở chỗ nào hoặc nếu các đương sự không thoả thuận được, thì
hướng xét xử của Toà án như thế nào,…
Điều
19. Trình tự hòa giải quy định tại Điều 185a của BLTTDS
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án tiến hành việc
hòa giải theo trình tự như sau:
1. Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải khai mạc phiên hòa
giải như sau: “Hôm nay, ngày, tháng, năm, Toà án nhân dân… tiến hành tổ chức
hòa giải vụ án về…, tôi tuyên bố khai mạc phiên hòa giải”.
2. Thẩm phán chủ trì phiên hòa
giải giới thiệu
họ, tên những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác tham gia phiên hòa giải (nếu có).
3. Thư ký Toà án báo cáo với
Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải về sự có mặt, vắng mặt của những người tham
gia phiên hòa giải theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án và lý do vắng mặt. Thẩm
phán chủ trì phiên hòa giải kiểm tra lại sự có mặt và kiểm tra căn cước của
những người tham gia phiên hòa giải theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án
(quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 184 của BLTTDS).
4.
Thẩm phán chủ trì phiên hòa
giải phải phổ biến đầy đủ quyền, nghĩa vụ của các đương sự và của những người
tham gia tố tụng khác quy định tại điều luật tương ứng của BLTTDS.
Ví dụ: Đối với nguyên đơn phải giải
thích đầy đủ quyền, nghĩa vụ của họ quy định tại Điều 58 và Điều 59 của BLTTDS,…
Đối với người phiên dịch, Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải yêu cầu họ phải cam
đoan làm tròn nhiệm vụ; đối với người làm chứng là người thành niên, thì yêu
cầu họ cam đoan khai báo trung thực.
7. Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải theo nội dung hoà
giải quy định tại Điều 185 của BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 18 của Nghị quyết
này.
8. Phiên hòa giải phải được ghi biên bản theo quy định
tại Điều 186 của BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 20 của Nghị quyết này, trước khi
kết thúc phiên hòa giải Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải xem xét (lập biên bản
hòa giải thành hoặc không thành…) về việc giải quyết vụ án tại phiên hòa giải.
Điều 20. Biên bản hòa giải quy định tại Điều 186 của
BLTTDS
1. Thư ký Toà án ghi biên bản hoà
giải có đầy đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 186, có đầy đủ chữ ký hoặc
điểm chỉ của những người quy định tại khoản 2 Điều 186 của BLTTDS và theo Mẫu
số 07 ban hành kèm theo Nghị quyết này.
2. Khi các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề
phải giải quyết trong vụ án, thì Thẩm phán hoặc Thư ký Toà án lập biên bản hoà
giải thành. Biên bản hoà giải thành phải ghi cụ thể nội dung thoả thuận của các
đương sự theo Mẫu số 08a ban hành kèm theo Nghị quyết này.
Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải ký tên và đóng dấu của
Toà án vào biên bản. Các đương sự tham gia phiên hoà giải phải ký tên hoặc điểm
chỉ vào biên bản hoà giải thành. Biên bản hoà giải thành phải được gửi ngay cho
các đương sự tham gia hoà giải.
Đối với các đương sự vắng mặt mà việc hoà giải thuộc
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 184 của BLTTDS, thì Toà án phải gửi ngay
biên bản hoà giải thành cho các đương sự vắng mặt.
3. Trong biên bản hoà giải thành cần ghi: “Trong thời hạn
bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải, nếu đương sự nào có thay đổi ý kiến
về sự thoả thuận, thì phải làm thành văn bản gửi cho Toà án”. Trong trường hợp
đương sự trực tiếp đến Toà án xin thay đổi thoả thuận, thì Thẩm phán phải lập
biên bản ghi ý kiến thay đổi thoả thuận của họ. Biên bản phải có chữ ký hoặc
điểm chỉ của đương sự và lưu vào hồ sơ vụ án. Việc thay đổi ý kiến về sự thoả
thuận này phải được Toà án thông báo cho các đương sự khác có liên quan đến
thoả thuận đó.
Điều 21. Ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự quy định tại Điều 187 của BLTTDS
1. Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà
giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó, thì về
nguyên tắc chung Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải ra quyết định công nhận sự
thoả thuận của các đương sự. Nếu vì trở ngại khách quan mà Thẩm phán không ra
quyết định được, thì Chánh án Toà án phân công một Thẩm phán khác ra quyết định
công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
2. Thẩm phán chỉ ra
quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, nếu các đương sự thoả
thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án (các quan hệ pháp luật,
các yêu cầu của các đương sự trong vụ án) và cả về án phí. Trong trường hợp các
đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nhưng không
thoả thuận được với nhau về trách nhiệm phải chịu án phí hoặc mức án phí, thì
Toà án không công nhận sự thoả thuận của các đương sự mà tiến hành mở phiên toà
để xét xử vụ án.
3. Trong trường hợp các đương sự chỉ thoả thuận được với
nhau về việc giải quyết một phần vụ án, còn phần khác không thoả thuận được,
thì Toà án ghi những vấn đề mà các đương sự thoả thuận được và những vấn đề
không thoả thuận được vào biên bản hoà giải theo quy định tại khoản 1 Điều 186
của BLTTDS và tiến hành ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, trừ trường hợp có
căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Điều 22. Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự quy định
tại Điều 189 của BLTTDS
1. Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự mà không phụ thuộc có hay không có yêu cầu của đương sự khi thuộc một
trong các trường hợp quy định tại Điều 189 của BLTTDS.
2. “Trường hợp cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách
mà chưa có cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ
chức đó” là trường hợp đã có quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về
việc sáp nhập, chia, tách cơ quan, tổ chức đó, nhưng cơ quan, tổ chức mới chưa
được thành lập hoặc đã được thành lập nhưng chưa có đầy đủ điều kiện để hoạt
động theo quy định của pháp luật đối với loại hình cơ quan, tổ chức đó.
“Trường hợp cơ quan, tổ chức đã giải thể mà chưa có cơ
quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó” là
trường hợp chưa xác định được cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ
tố tụng theo quy định tại các điểm a và b khoản 2, khoản 3 Điều 62 của BLTTDS.
3. “Đại diện hợp pháp của đương sự” quy định tại khoản 3
Điều 189 của BLTTDS bao gồm đại diện theo pháp luật và đại diện theo uỷ quyền.
Người đại diện hợp pháp của đương sự được xác định theo quy định của Bộ luật dân
sự năm 2005, Điều 73 của BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 21 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP
ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ
nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung
theo Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật tố tụng dân sự.
4. “Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan
hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải
quyết trước mới giải quyết được vụ án” quy định tại khoản 4 Điều 189 của BLTTDS
là trường hợp mà kết quả giải quyết vụ án dân sự, hình sự, hành chính đó, hoặc
kết quả giải quyết của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là cơ sở để xác định thẩm
quyền của Tòa án, xác định quyền khởi kiện đối với vụ án, xác định địa vị pháp
lý, xác định người tham gia tố tụng, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp hoặc
là căn cứ khác để Tòa án giải quyết vụ án này một cách toàn diện, chính xác và
đúng pháp luật.
"Vụ án khác có liên quan” đến vụ án mà Tòa án đang
giải quyết là vụ việc dân sự, vụ án hình sự, hành chính.
“Sự việc được pháp luật quy định” phải là sự việc có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc giải quyết vụ án, và nếu không được cơ quan, tổ chức
khác giải quyết trước thì việc giải quyết của Tòa án là vi phạm pháp luật.
Ví dụ 1: Trong vụ án tranh chấp về
hợp đồng mua bán tài sản giữa nguyên đơn A và bị đơn B. Sau khi thụ lý vụ án mà
Tòa án nhân dân huyện X nhận được thông báo của Tòa án nhân dân huyện Y về việc
Tòa án này đang thụ lý giải quyết vụ án giữa nguyên đơn C và bị đơn A về tranh
chấp quyền sở hữu đối với tài sản đó. Trường hợp này, Tòa án nhân dân huyện X
cần ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án tranh chấp về hợp đồng mua bán
tài sản giữa A và B để chờ kết quả giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu tài
sản đó của Tòa án nhân dân huyện Y. Căn cứ vào kết quả giải quyết của Tòa án
nhân dân huyện Y, Tòa án nhân dân huyện X sẽ tiếp tục giải quyết vụ án tranh
chấp về hợp đồng mua bán tài sản theo thủ tục chung.
Ví dụ 2: Tòa án nhân dân huyện X đang giải quyết tranh
chấp giữa nguyên đơn A và bị đơn B xuất phát từ giao dịch trái pháp luật giữa A
và B thì nhận được thông báo của Viện kiểm sát nhân dân huyện X về giao dịch giữa
A và B có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự và yêu cầu Tòa án nhân dân huyện X
chuyển hồ sơ để điều tra hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Trường hợp này, Tòa
án nhân dân huyện X cần tạm đình chỉ giải quyết vụ án để chờ kết quả điều tra
của Cơ quan có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật đó. Nếu cơ quan điều tra
kết luận giao dịch dân sự trái pháp luật giữa A và B chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự, thì Tòa án nhân dân huyện X tiếp tục giải quyết vụ án
tranh chấp giữa A và B về giao dịch trái pháp luật đó.
5. "Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp hoặc
đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Toà án mới
giải quyết được vụ án mà thời hạn giải quyết đã hết” quy định tại khoản 5 Điều
189 của BLTTDS là trường hợp Tòa án phải ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi
phải thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp hoặc chưa có kết quả thực hiện ủy thác
tư pháp hoặc chưa nhận được các tài liệu, chứng cứ từ cơ quan, tổ chức mà thời
hạn chuẩn bị xét xử (kể cả trường hợp đã gia hạn) đã hết hoặc tuy đã có quyết
định đưa vụ án ra xét xử hoặc tại phiên tòa xét xử mà xét thấy cần phải thực
hiện ủy thác tư pháp hoặc cần phải yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu,
chứng cứ mới giải quyết được vụ án thì Tòa án phải ra quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án.
Ví dụ: Theo quy định tại khoản 4 Điều 93 của BLTTDS, thì Tòa án phải tiến
hành ủy thác thu thập chứng cứ ra nước ngoài trong trường hợp cần thiết. Trường
hợp đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử (kể cả trường hợp đã gia hạn) mà vẫn chưa
có kết quả ủy thác thu thập chứng cứ theo quy định, thì Tòa án phải ra quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án để chờ kết quả ủy thác tư pháp của cơ quan
có thẩm quyền của nước ngoài. Sau khi có kết quả ủy thác tư pháp của cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài hoặc sau khi đã hết thời hạn ủy thác tư pháp theo quy
định của pháp luật, thì Tòa án tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục
chung.
6. “Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định” quy
định tại khoản 6 Điều 189 của BLTTDS là các trường hợp làm căn cứ cho Toà án ra
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự mà trong BLTTDS này chưa quy
định nhưng đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc sau
khi BLTTDS có hiệu lực thi hành mới được quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật được ban hành sau đó hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Điều 23.
Hậu quả của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự quy định tại khoản 3 Điều
190 của BLTTDS
1. Khi quyết định tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm và việc kháng cáo, kháng nghị là hợp lệ, thì Toà án cấp sơ thẩm phải gửi
hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị cho Toà án cấp phúc thẩm theo quy định tại
Điều 255 của BLTTDS.
2. Trong trường hợp hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị mới có khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định
tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, thì cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp Toà án cấp
sơ thẩm xét thấy quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là không đúng,
thì tiếp tục giải quyết vụ án bị tạm đình chỉ vì lý do tạm đình chỉ không còn.
b) Trường hợp Toà án cấp
sơ thẩm xét thấy quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là đúng và vẫn
giữ nguyên, thì khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định tạm đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự phải được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.
Điều 24. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự quy định tại
điểm c và điểm k khoản 1 Điều 192 của BLTTDS
1. Khi người khởi kiện
rút đơn khởi kiện, thì Toà án cần phải xem xét trong vụ án có yêu cầu phản tố
của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay
không để quyết định như sau:
a)
Trong trường hợp không có yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập, thì Toà án chấp
nhận việc người khởi kiện rút đơn khởi kiện và căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều
192 của BLTTDS ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
b) Trong trường hợp có
yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, thì tuỳ trường hợp mà giải quyết như sau:
b1) Trường hợp người
khởi kiện rút đơn khởi kiện, bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình, thì Toà
án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đối với yêu cầu của người
khởi kiện đã rút;
b2) Trường hợp người
khởi kiện rút đơn khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, nhưng người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình, thì Toà
án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đối với yêu cầu của người khởi
kiện và yêu cầu phản tố của bị đơn đã rút;
b3) Trường hợp người
khởi kiện rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút toàn bộ
yêu cầu độc lập, nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình, thì Toà
án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đối với yêu cầu của người
khởi kiện và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã rút.
c) Sau khi ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của đương sự đã rút được hướng dẫn
tại điểm b khoản 1 Điều này, Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục
chung đối với yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác định
lại địa vị tố tụng của các đương sự theo đúng quy định tại Điều 219 của BLTTDS
và hướng dẫn tại Điều 33 của Nghị quyết này.
d) Trong trường hợp
người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản
tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu độc lập, thì Toà
án ra quyết định đình chỉ giải quyết toàn bộ vụ án.
2. “Các trường hợp khác
mà pháp luật có quy định” quy định tại điểm k khoản 1 Điều 192 của BLTTDS là
các trường hợp làm căn cứ cho Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự mà trong BLTTDS này chưa quy định nhưng đã được quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật khác hoặc sau khi BLTTDS có hiệu lực thi hành mới được
quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau đó hoặc trong
các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Điều 25. Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự quy định tại khoản 1 Điều 193 của BLTTDS
Trong trường hợp đã có
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, thì cần phân biệt như sau:
1. Trường hợp quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự quy định tại các điểm a, b, d, đ, h, i và k
khoản 1 Điều 192 của BLTTDS, thì đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà
án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì
khác vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp.
Trường hợp Tòa án ra quyết
định đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1
Điều 192 của BLTTDS, thì trước khi ra quyết định, Tòa án phải giải thích rõ cho
các đương sự về hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án là các đương sự sẽ
không có quyền khởi kiện lại vụ án đó.
Trường hợp cơ quan, tổ
chức (trong trường hợp không có nguyên đơn), nguyên đơn quy định tại điểm d và
điểm đ khoản 1 Điều 192 của BLTTDS chỉ rút văn bản khởi kiện, không yêu cầu Tòa
án tiếp tục giải quyết vụ án khi có những điều kiện nhất định theo thỏa thuận,
thương lượng giữa các đương sự thì Tòa án cần ghi rõ điều kiện đó trong quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án để làm căn cứ cho việc khởi kiện lại của đương
sự.
Do
đó, trường hợp đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm d và điểm
đ khoản 1 Điều 192 của BLTTDS thì trong quyết định đình chỉ giải quyết vụ án Tòa
án phải nêu rõ hậu quả pháp lý của việc đình chỉ giải quyết vụ án là các đương
sự sẽ không có quyền khởi kiện lại vụ án đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không
có gì khác vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp.
2. Trường hợp quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự quy định tại các điểm c, e và g khoản 1 Điều
192 của BLTTDS, hoặc vụ việc thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 168 của
BLTTDS, thì đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết lại vụ án dân
sự đó theo thủ tục chung, nếu thời hiệu khởi kiện vụ án theo quy định tại Điều
159 của BLTTDS vẫn còn, mặc dù việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác vụ án
trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp.
3.
Trường hợp quyết định đình chỉ vụ án quy định tại điểm g khoản 1 Điều 192 của BLTTDS
và khoản 2 Điều 77 của Luật Phá sản, nếu sau đó Toà án ra quyết định đình chỉ
thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh gửi trả lại hồ sơ vụ án cho Toà án có
thẩm quyền, thì Toà án đó tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Điều 26.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử quy định tại Điều 195 của BLTTDS
1. Quyết định đưa vụ án
ra xét xử phải có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 195 của BLTTDS và theo
Mẫu số 12 ban hành kèm theo Nghị quyết này. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải
được ban hành chậm nhất là bảy ngày làm việc trước ngày mở phiên tòa.
2. Để không phải hoãn
phiên toà và bảo đảm đúng quy định của BLTTDS, trong trường hợp Hội thẩm nhân
dân được phân công tham gia xét xử không tiếp tục tham gia xét xử được sau khi
có quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì đồng thời với việc phân công Hội thẩm
nhân dân chính thức, cần phân công Hội thẩm dự khuyết và cùng ghi họ tên Hội
thẩm dự khuyết vào quyết định đưa vụ án ra xét xử.
3. Quyết định đưa vụ án
ra xét xử phải được gửi cho các đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp ngay sau khi
Toà án ra quyết định, không phân biệt vụ án đó Viện kiểm sát cùng cấp có tham
gia phiên toà hay không.
Trong trường hợp Viện
kiểm sát cùng cấp tham gia phiên toà, thì Toà án gửi hồ sơ vụ án dân sự cùng
với quyết định đưa vụ án ra xét xử theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC
ngày 01-8-2012 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao hướng
dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
Điều 27. Sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự quy định tại Điều 199 của BLTTDS
Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố được triệu tập
hợp lệ lần thứ hai vắng mặt và không có người đại diện tham gia phiên tòa mà
không vì sự kiện bất khả kháng, thì Tòa án đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu
phản tố của bị đơn, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị
đơn có yêu cầu phản tố có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó, nếu
thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
Điều 28. Xét xử trong trường hợp đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự vắng mặt tại phiên toà quy định tại Điều 202 của BLTTDS.
1. Tòa án triệu tập hợp
lệ lần thứ nhất mà đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt mà không có đơn đề nghị Tòa án xét xử
vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 199 của BLTTDS thì dù có hay không có
lý do chính đáng, Toà án hoãn phiên toà.
Tòa án chỉ tiến hành xét
xử vắng mặt đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nếu Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất
mà thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có một hoặc một số
đương sự; người đại diện của một hoặc một số đương sự; người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của một hoặc một số đương sự có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng
mặt và các đương sự còn lại, người đại diện của các đương sự còn lại, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự còn lại vẫn có mặt theo giấy
triệu tập của Tòa án.
b) Tất cả các đương sự
và người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ án đều có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt. Trong trường
hợp này, Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ để giải quyết theo
quy định pháp luật.
2. Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự
hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
phải có mặt tại phiên toà, nếu vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng thì xử
lý theo quy định tại khoản 2 Điều 199 của BLTTDS.
3. Trường hợp đương sự,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã nhận được quyết định đưa
vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 195 của BLTTDS, đã được Toà án
tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên toà theo quy định tại các điều từ Điều 150
đến Điều 156 của BLTTDS và đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự đã chuẩn bị tham gia phiên toà xét xử vụ án, nhưng do sự kiện bất khả
kháng xảy ra đối với họ vào trước thời điểm Toà án mở phiên toà hoặc ngay trong
thời điểm họ đang trên đường đến Toà án để tham gia phiên toà (do thiên tai,
địch hoạ, bị tai nạn, ốm nặng phải đi bệnh viện cấp cứu, người thân bị chết,…)
nên họ không thể có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, thì Toà
án cũng hoãn phiên toà.
Trường hợp do Toà án
không nhận được thông báo từ phía đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự nên vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ, nếu sau khi bản
án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, đương sự có khiếu nại và chứng
minh được việc họ vắng mặt tại phiên toà là do sự kiện bất khả kháng, thì khiếu
nại cần được xem xét theo thủ tục tái thẩm.
Điều 29. Thời hạn hoãn phiên tòa và
quyết định hoãn phiên tòa quy định tại Điều 208 của BLTTDS
1. Thời hạn hoãn phiên
toà sơ thẩm không quá ba mươi ngày, kể từ ngày Hội đồng xét xử ra quyết định
hoãn phiên toà.
Nếu phiên toà xét xử một
vụ án bị hoãn nhiều lần, thì thời hạn của mỗi lần hoãn phiên toà không được quá
giới hạn cho phép là ba mươi ngày, kể từ ngày Hội đồng xét xử ra quyết định
hoãn phiên toà của lần đó. Thời gian hoãn phiên toà không tính vào thời hạn
chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 179 của BLTTDS và được hướng dẫn tại Điều 14
của Nghị quyết này. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự, bảo đảm việc mở lại phiên toà xét xử vụ án theo đúng quy định, thì sau khi
hoãn phiên toà, Toà án phải có kế hoạch mở lại phiên toà trong thời gian sớm
nhất mà không nhất thiết phải để đến 30 ngày mới mở lại phiên toà.
2. Quyết định hoãn phiên
toà phải có các nội dung chính quy định tại khoản 2 Điều 208 của BLTTDS và ghi
theo Mẫu số 14 ban hành kèm theo Nghị quyết này.
3. Trường hợp đã ấn định
được ngày mở lại phiên toà, thì trong quyết định hoãn phiên toà phải ghi thời
gian, địa điểm mở lại phiên toà. Nếu chưa ấn định được ngày mở lại phiên toà,
thì trong quyết định ghi về thời gian, địa điểm mở lại phiên toà sẽ được Toà án
thông báo sau.
Chủ tọa phiên tòa thay
mặt Hội đồng xét xử thông báo công khai quyết định hoãn phiên toà cho những
người tham gia tố tụng có mặt tại phiên toà biết và giao ngay cho họ quyết định
này. Đối với người vắng mặt và Viện kiểm sát cùng cấp, thì Toà án gửi ngay
quyết định hoãn phiên toà. Quyết định này được coi như giấy triệu tập mới đối
với đương sự, nếu trong quyết định đã ghi thời gian, địa điểm mở lại phiên toà.
Trong trường hợp có sự
thay đổi về thời gian, địa điểm mở lại phiên toà ghi trong quyết định hoãn
phiên toà, thì Toà án phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp và những
người tham gia tố tụng biết về thời gian, địa điểm mở lại phiên toà.
4. Hội đồng xét xử không
được hoãn phiên toà vì lý do tại phiên toà đương sự yêu cầu hoãn phiên toà để
nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc để uỷ quyền cho
người khác tham gia tố tụng thay mình.
5. Nếu tại phiên toà,
đương sự xuất trình tài liệu, chứng cứ mới mà có yêu cầu giám định bổ sung đối
với tài liệu, chứng cứ đó hoặc giám định lại (kể cả việc tài sản mới được phát
hiện cần phải định giá, thẩm định giá) và xét thấy việc giám định bổ sung, giám
định lại (định giá, thẩm định giá) là cần thiết cho việc giải quyết vụ án, thì
Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung, giám định lại (định giá, thẩm
định giá) và căn cứ vào khoản 4 Điều 230 của BLTTDS ra quyết định hoãn phiên
toà.
Nếu sắp hết thời hạn
hoãn phiên toà mà chưa có kết quả giám định, kết quả định giá, thẩm định giá
thì Thẩm phán căn cứ vào khoản 4 Điều 189 của BLTTDS ra quyết định tạm đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự.
Điều 30.
Biên bản phiên tòa quy định tại Điều 211 của BLTTDS
1.
Biên bản phiên toà phải ghi đầy đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 211 của
BLTTDS. Theo quy định tại khoản 1 Điều 211 của BLTTDS, thì biên bản phiên toà
phải ghi mọi diễn biến ở phiên toà từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên
toà. Trong biên bản phiên toà không phải ghi phần quyết định của bản án.
2. Sau khi kết thúc phiên
toà trước khi trình chủ tọa phiên toà kiểm tra lại và ký vào biên bản phiên
toà, Thư ký Toà án phải tự mình kiểm tra lại biên bản phiên toà để sửa chữa
những điểm không chính xác trong biên bản phiên toà. Chủ tọa phiên toà phải
kiểm tra lại biên bản và cùng với Thư ký Toà án ký vào biên bản đó. Sau khi chủ
tọa phiên toà đã kiểm tra lại và ký vào biên bản phiên toà, nếu phát hiện được
những điểm không chính xác trong biên bản phiên toà cần phải được sửa đổi, thì
Thư ký Toà án không được tự mình sửa đổi mà phải báo cáo với chủ tọa phiên toà
xem xét việc sửa đổi. Khi có một trong những người quy định tại khoản 4 Điều
211 của BLTTDS có yêu cầu được xem biên bản phiên toà, thì chủ tọa phiên toà
phải cho phép họ xem biên bản phiên toà. Nếu họ có yêu cầu ghi những sửa đổi,
bổ sung vào biên bản phiên toà, thì Thư ký Toà án phải ghi những sửa đổi, bổ
sung theo yêu cầu của họ. Không được tẩy xoá, sửa chữa trực tiếp vào những vấn
đề đã ghi mà ghi những sửa đổi, bổ sung tiếp vào biên bản phiên toà. Người nào
được quy định tại khoản 4 Điều 211 của BLTTDS có yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ
sung vào biên bản phiên toà, thì ghi tư cách tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố
tụng và họ tên của người đó. Tiếp theo ghi những vấn đề được ghi trong biên bản
phiên toà có yêu cầu sửa đổi, bổ sung và những sửa đổi, bổ sung cụ thể. Nếu có
nhiều người yêu cầu, thì ghi thứ tự từng người một. Sau đó người có yêu cầu
phải ký xác nhận.
Ví
dụ 1: (trường hợp có một người yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ
sung)
Những
sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Văn A:
1.
Về vấn đề được ghi tại dòng (các dòng) từ trên xuống (hoặc từ dưới lên)
trang... của biên bản phiên toà yêu cầu ghi sửa đổi, bổ sung như sau:
...
2.
...
Ví
dụ 2: (trường hợp có từ hai người trở lên có yêu cầu ghi
những sửa đổi, bổ sung)
Những
sửa đổi, bổ sung:
1.
Theo yêu cầu của Kiểm sát viên Trần Văn B:
a.
...
b.
...
2.
Theo yêu cầu của bị đơn Lê Thị M:
a.
...
b.
..
Điều 31.
Khai mạc phiên tòa quy định tại Điều 213 của BLTTDS
1.
Chủ tọa phiên toà khai mạc phiên toà và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Khi khai mạc phiên toà,
chủ tọa phiên toà yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy. Chủ toạ phiên
toà khai mạc phiên toà như sau: “Hôm nay, ngày, tháng, năm, Toà án nhân dân… mở
phiên toà sơ thẩm công khai (không công khai) xét xử vụ án về tranh chấp… thay
mặt Hội đồng xét xử, tôi tuyên bố khai mạc phiên toà” và đọc quyết định đưa vụ
án ra xét xử.
2. Sau khi nghe Thư ký
Toà án báo cáo có đương sự vắng mặt tại phiên toà, Hội đồng xét xử phải vào
phòng nghị án thảo luận việc hoãn phiên toà theo quy định tại khoản 2 Điều 210
của BLTTDS.
3. Chủ tọa phiên toà
tiến hành kiểm tra căn cước của đương sự có mặt tại phiên toà như sau:
a) Chủ tọa hỏi để các
đương sự khai về họ, tên, ngày tháng năm sinh; nơi cư trú (nơi đăng ký hộ khẩu
thường trú; nơi cư trú); nghề nghiệp (nếu đương sự là cá nhân); tên, địa chỉ
trụ sở chính (nếu đương sự là cơ quan, tổ chức). Đối với người đại diện hợp
pháp của đương sự phải hỏi họ để họ khai về: họ, tên, tuổi; nghề nghiệp; chức
vụ; nơi cư trú; quan hệ với đương sự.
b) Trong trường hợp các
tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của các đương sự về căn cước có
sự khác nhau, thì cần phải xác minh chính xác về căn cước của họ.
4. Đối với việc phổ biến
quyền, nghĩa vụ của các đương sự và của những người tham gia tố tụng khác, chủ
tọa phiên toà phải phổ biến đầy đủ quyền, nghĩa vụ của họ quy định tại điều
luật tương ứng của BLTTDS.
Ví dụ: Đối với nguyên
đơn phải giải thích đầy đủ quyền, nghĩa vụ của họ quy định tại Điều 58 và Điều
59 của BLTTDS,…
Đối với người phiên
dịch, người giám định, chủ tọa phiên toà yêu cầu họ phải cam đoan làm tròn
nhiệm vụ; đối với người làm chứng là người thành niên, thì yêu cầu họ cam đoan
khai báo trung thực.
5. Đối với trường hợp
Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà, thì khi mở lại phiên toà, chủ tọa
phiên toà không đọc lại quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Nếu Hội đồng xét xử
quyết định hoãn phiên toà mà trong thời gian chuẩn bị mở phiên toà, có sự thay
đổi, phân công lại người tiến hành tố tụng có tên trong quyết định đưa vụ án ra
xét xử, thì Toà án thông báo cho những người quy định tại khoản 2 Điều 195 của
BLTTDS biết.
Điều 32. Xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu quy
định tại khoản 1 Điều 218 của BLTTDS
Việc thay đổi, bổ sung
yêu cầu của đương sự tại phiên toà chỉ được Hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc
thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu
cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của
nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
Việc thay đổi, bổ sung
yêu cầu của đương sự phải được ghi vào biên bản phiên toà. Trong trường hợp Hội
đồng xét xử chấp nhận yêu cầu thay đổi, bổ sung của đương sự, thì phải ghi
trong bản án.
Trường hợp đương sự rút
một phần yêu cầu trước và tại phiên tòa, thì Tòa án ghi vào phần nhận định và
quyết định trong bản án, quyết định về việc rút yêu cầu đó của đương sự.
Điều 33.
Thay đổi địa vị tố tụng quy định tại Điều 219 của BLTTDS
Trường hợp tại phiên toà
có đương sự rút yêu cầu, thì tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau:
1. Nếu nguyên đơn rút
toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn vẫn giữ yêu cầu phản tố của mình theo
quy định tại khoản 1 Điều 219 của BLTTDS, thì Hội đồng xét xử:
a) Ra quyết định đình
chỉ xét xử đối với toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn đã rút theo quy định tại
khoản 2 Điều 218 của BLTTDS;
b) Công bố việc thay đổi
địa vị tố tụng của các đương sự. Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình
trở thành nguyên đơn; nguyên đơn đã rút toàn bộ yêu cầu của mình trở thành bị
đơn.
2. Nếu nguyên đơn rút
toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, nhưng người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình theo quy
định tại khoản 2 Điều 219 của BLTTDS, thì Hội đồng xét xử:
a) Ra quyết định đình
chỉ xét xử đối với toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, của bị đơn đã rút theo quy
định tại khoản 2 Điều 218 của BLTTDS.
b) Công bố công khai tại
phiên toà việc thay đổi địa vị tố tụng tùy theo mối quan hệ giữa các đương sự
liên quan đến yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
3. Việc thay đổi địa vị
tố tụng của đương sự phải được ghi vào biên bản phiên toà và phải được ghi
trong bản án.
Điều 34.
Công nhận sự thỏa thuận của đương sự quy định tại khoản 1 Điều 220 của BLTTDS
1. Trước khi chuyển sang
phần hỏi, Hội đồng xét xử cần giải thích cho các đương sự biết nội dung quy
định tại Điều 220 của BLTTDS, hỏi họ có thoả thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án hay không; nếu có thì hỏi họ có hoàn toàn tự nguyện hay không, có
bị ép buộc hay không và xem xét thoả thuận đó có trái pháp luật, đạo đức xã hội
hay không và cho họ biết hậu quả của việc Toà án ra quyết định công nhận thoả
thuận đó, thì các đương sự không được kháng cáo, Viện kiểm sát không được kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm; quyết định của Toà án công nhận sự thoả thuận của
đương sự về việc giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật.
2. Sự thoả thuận của các
đương sự phải được ghi vào biên bản phiên toà. Theo quy định tại Điều 210 của
BLTTDS, thì Hội đồng xét xử thảo luận và ra quyết định công nhận sự thoả thuận
của các đương sự về việc giải quyết vụ án tại phòng xử án.
Điều 35. Nghị án quy định tại Điều 236 của BLTTDS
1.
Các thành viên Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng
cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một; cụ thể là các vấn đề chính sau:
căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra xem xét tại phiên toà, qua
việc hỏi và tranh luận tại phiên toà, qua việc xem xét ý kiến của những người
tham gia tố tụng, kiểm sát viên (nếu có) đã đủ căn cứ để chấp nhận toàn bộ, một
phần các yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc không chấp nhận toàn bộ, một
phần các yêu cầu của các đương sự hay chưa, nếu đã đủ căn cứ để chấp nhận thì
theo điểm, khoản, điều luật nào của văn bản quy phạm pháp luật tương ứng và án
phí dân sự sơ thẩm.
2. Trong trường hợp Hội
đồng xét xử sơ thẩm chỉ có một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, thì khi phát
biểu (hoặc khi biểu quyết) các Hội thẩm nhân dân phát biểu (hoặc biểu quyết)
trước, Thẩm phán chủ toạ phiên toà phát biểu (hoặc biểu quyết) sau. Trong
trường hợp Hội đồng xét xử sơ thẩm có hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân,
thì các Hội thẩm nhân dân phát biểu (hoặc biểu quyết) trước, đến Thẩm phán
không phải là chủ toạ phiên toà và sau cùng là Thẩm phán chủ toạ phiên toà phát
biểu (hoặc biểu quyết).
3. Thành viên của Hội
đồng xét xử có ý kiến thiểu số, thì có quyền (không phải là nghĩa vụ) trình bày
ý kiến của mình bằng văn bản riêng và văn bản đó được đưa vào hồ sơ vụ án.
4. Trong biên bản nghị
án phải ghi lại đầy đủ các ý kiến đã thảo luận về từng vấn đề một và quyết định
theo đa số của Hội đồng xét xử về từng vấn đề đó. Các thành viên Hội đồng xét
xử phải ký vào biên bản nghị án tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
5. Trong trường hợp vụ
án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài, thì
Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án nhưng không quá năm ngày
làm việc, kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử phải
thông báo ngày giờ tuyên án cho các đương sự biết. Nếu đã ấn định ngày giờ
tuyên án mà có thay đổi, thì Hội đồng xét xử phải thông báo lại cho các đương
sự biết việc thay đổi đó.
Điều 36.
Bản án sơ thẩm quy định tại Điều 238 của BLTTDS
Bản
án sơ thẩm phải được viết theo đúng quy định tại Điều 238 của BLTTDS, cách
viết, trình bày phải theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP
ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi
hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố
tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật tố tụng dân sự.
Cùng
với biên bản nghị án, bản án gốc phải được các thành viên Hội đồng xét xử thông
qua và ký tại phòng nghị án và được lưu vào hồ sơ vụ án. Trên cơ sở bản án gốc,
Thẩm phán chủ tọa phiên toà thay mặt Hội đồng xét xử ký các bản án chính và Toà
án thực hiện việc giao hoặc gửi bản án theo quy định tại Điều 241 của BLTTDS.
Điều 37.
Tuyên án quy định tại Điều 239 của BLTTDS
Khi
tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Nếu thấy có người không
đứng dậy, thì Thư ký Toà án phải nhắc nhở họ, nếu người đó báo cáo vì lý do sức
khoẻ nên không thể đứng dậy được, thì chủ toạ phiên toà cho phép ngồi tại chỗ
và sau đó mới tuyên án. Chủ tọa phiên toà hoặc một thành viên khác của Hội đồng
xét xử đọc bản án; nếu bản án dài thì có thể thay nhau đọc bản án.
Trong trường hợp bản án
quá dài, thì chủ tọa phiên toà có thể chỉ yêu cầu mọi người trong phòng xử án
phải đứng dậy khi đọc phần mở đầu và phần quyết định của bản án.
Sau khi đọc xong bản án,
tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, chủ tọa phiên toà hoặc một thành viên khác của
Hội đồng xét xử giải thích thêm về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo của
đương sự.
Đối với đương sự không
biết tiếng Việt, thì sau khi tuyên án xong người phiên dịch phải dịch lại cho
họ nghe toàn bộ bản án sang thứ tiếng mà họ biết (bao gồm cả phần bản án có
liên quan đến họ và phần bản án có liên quan đến các đương sự khác trong vụ
án).
Điều 38.
Sửa chữa, bổ sung bản án quy định tại Điều 240 của BLTTDS
1. Chỉ được sửa chữa, bổ
sung bản án trong các trường hợp sau đây:
a) Phát hiện lỗi rõ ràng
về chính tả như: lỗi do viết không đúng từ ngữ, dấu, chữ viết hoa, viết thường,
phiên âm tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, bỏ sót không ghi tên đệm trong họ,
tên của đương sự,…
b) Số liệu do nhầm lẫn
hoặc do tính toán sai (kể cả án phí) như: cộng, trừ, nhân, chia sai,… mà phải
sửa lại cho đúng.
2.
Toà án phải gửi văn bản thông báo về việc sửa chữa, bổ sung bản án cho những
người quy định tại khoản 1 Điều 240 của BLTTDS. Thông báo về việc sửa chữa, bổ
sung bản án trình bày theo Mẫu số 15 ban hành kèm theo Nghị quyết này.
Điều 39. Các mẫu văn bản tố tụng
Ban hành kèm theo Nghị
quyết này các mẫu văn bản tố tụng sau đây:
1. Đơn khởi kiện (Mẫu số
01);
2. Giấy báo nhận đơn
khởi kiện (Mẫu số 02);
3. Thông báo trả lại đơn
khởi kiện (Mẫu số 03);
4. Thông báo nộp tiền
tạm ứng án phí (Mẫu số 04);
5. Thông báo về việc thụ
lý vụ án (Mẫu số 05);
6. Thông báo về phiên
hoà giải (Mẫu số 06a);
- Thông báo hoãn phiên
hòa giải (Mẫu số 06b);
7. Biên bản hoà giải (Mẫu
số 07);
8. Biên bản hoà giải
thành (Mẫu số 08a);
- Biên bản ghi nhận sự
tự nguyện ly hôn và hòa giải thành (Mẫu số 08b);
9. Quyết định công nhận
sự thoả thuận của các đương sự (Mẫu số 09a);
- Quyết định công nhận
thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự (Mẫu số 09b);
10. Quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự (Mẫu số 10a);
- Quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự (Mẫu số 10b);
11. Quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự (Mẫu số 11a);
- Quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự (Mẫu số 11b);
12. Quyết định đưa vụ án
ra xét xử (Mẫu số 12);
13. Biên bản phiên toà
sơ thẩm (Mẫu số 13);
14. Quyết định hoãn
phiên toà (Mẫu số 14);
15. Thông báo sửa chữa,
bổ sung bản án (Mẫu số 15).
Điều 40. Hiệu lực thi hành
1. Nghị quyết này đã
được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 03-12-2012 và có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-7-2013.
Nghị quyết số
02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành một số quy định tại Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết
vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn về các vấn đề đã được hướng dẫn tại
Nghị quyết này của Tòa án nhân dân tối cao ban
hành trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành hết hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01-7-2013.
2. Đối với những vụ việc
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động mà Toà án đã thụ lý nhưng chưa
xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp
dụng hướng dẫn tại Nghị quyết này để giải quyết.
Đối với bản án, quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực
thi hành, thì không áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, trừ trường hợp có căn cứ kháng nghị khác.
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
CHÁNH ÁN Trương Hòa Bình |
Ý KIẾN