Thông báo 262/TB-VKSTC-V5 tình hình thực hiện công tác kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự những tháng đầu năm 2012 và vướng mắc trong quá trình thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự và Thông tư liên tịch 04/TTLT
- Tải về sách Ebook Bộ luật Tố tụng dân sự và văn bản hướng dẫn, biễu mẫu kèm theo
- Bộ Luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn mới nhất
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
Số:
262/TB-VKSTC-V5
|
Hà Nội, ngày
15 tháng 10 năm 2012
|
THÔNG BÁO
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC
VỤ VIỆC DÂN SỰ NHỮNG THÁNG ĐẦU NĂM 2012 VÀ MỘT SỐ VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN BLTTDS VÀ THÔNG TƯ LIÊN TỊCH SỐ 04/TTLT
Tổng hợp kết quả công tác kiểm sát giải quyết
các vụ, việc dân sự những tháng đầu năm 2012 của Viện kiểm sát các cấp, Vụ 5
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thông báo một tình hình triển khai thực hiện
BLTTDS (sửa đổi) tại các Viện kiểm sát địa phương, như sau:
1. Về kết quả công tác kiểm sát giải
quyết các vụ, việc dân sự
1.1. Về triển khai thực hiện BLTTDS sửa đổi,
bổ sung năm 2011:
Viện kiểm sát các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương tổ chức các hội nghị tập huấn quán triệt nội dung Hội nghị tập huấn
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (tổ chức vào tháng 9, tháng 9 tại Lâm đồng
và Quảng Ninh; xây dựng chương trình, kế hoạch công tác nhằm cụ thể hóa sự chỉ
đạo, hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao triển khai thực hiện BLTTDS.
Công tác quản lý, điều hành của Viện kiểm sát
các cấp tiếp tục đổi mới: Tăng cường kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ, kịp thời
trả lời thỉnh thị, giải đáp vướng mắc cho Viện kiểm sát cấp dưới; phân công
Kiểm sát viên, cán bộ kiểm sát bản án, quyết định; sổ sách thụ lý, giải quyết
vụ việc đảm bảo theo quy định.
2.2. Về kết quả công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ, việc dân sự
(Số liệu về kết quả công tác kiểm sát
từ 1/12/2011 đến 31/5/2012)
Thực hiện BLTTDS (sửa đổi), quyền hạn, trách
nhiệm của Viện kiểm sát có sự thay đổi, tạo điều kiện thuận lợi trong công tác
kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự. Bước đầu, tuy còn nhiều khó khăn
nhưng Viện kiểm sát các địa phương đã nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ.
Tổng số kiểm sát thụ lý theo thủ tục sơ thẩm
148.587 vụ việc (có 140.915 vụ, 7.672 việc), tăng 29.240 vụ việc so với cùng kỳ
năm 2011; Kiểm sát thụ lý 8.331 vụ, việc theo thủ tục phúc thẩm, tăng 1.031 vụ
việc; Viện kiểm sát các tỉnh, thành phố kiểm sát thụ lý 317 vụ theo thủ tục
giám đốc thẩm.
Qua số liệu trên cho thấy thụ lý kiểm sát theo
thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm tăng nhiều so với cùng kỳ năm 2011; Kiểm sát viên
tham gia 6.049 phiên tòa sơ thẩm, chiếm 40,3% (cùng kỳ năm 2011 và các năm
trước khoảng 0,12%); tham gia 3.978 phiên tòa phúc thẩm, chiếm tỷ lệ 78,78%
(cùng kỳ năm 2011, tham gia 572 phiên tòa, chiếm tỷ lệ 12,8%); tỷ lệ chấp nhận
kháng nghị phúc thẩm đạt 89,4 % (tỷ lệ chấp nhận tăng 5,9%); kháng nghị giám
đốc thẩm chấp nhận đạt 78%. Tỷ lệ án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm xét xử sửa, hủy
còn chiếm tỷ lệ cao: Hủy chiếm 19% (cùng kỳ năm 2011, là 16,1%), sửa án chiếm
36,2% (cùng kỳ năm 2011, là 38,6%).
Viện kiểm sát các địa phương đã tích cực kiểm
sát, phát hiện vi phạm và ban hành 727 kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục vi
phạm pháp luật (giảm 83 kiến nghị so với cùng kỳ năm 2011). Đã phát hiện nhiều
bản án, quyết định có vi phạm và ban hành 706 kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm; 116 kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; riêng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao ban hành 57 kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm,
ít hơn 20 kháng nghị so với cùng kỳ năm 2011.
Số kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát chiếm
tỷ lệ bình quân là 13,1% so số vụ án bị cấp phúc thẩm hủy, sửa. Có nhiều Viện
kiểm sát tỉnh, thành phố có kháng kháng nghị phúc thẩm chiếm tỷ lệ cao so với
số bản án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm hủy, sửa, là: Viện kiểm sát tỉnh Bắc Giang
là 24 vụ/32 vụ, tỷ lệ 75,4%; Quảng Ninh 15 vụ/20 vụ (75%); Đồng Nai là 32 vụ/94
vụ (34,1%); Tây Ninh là 39 vụ/104 vụ (37,5%); TP Hồ Chí Minh là 69 vụ/298 vụ
(23,1%); TP Hà Nội là 41 vụ/120 vụ (34,1%); Viện kiểm sát tỉnh Long An là 40
vụ/157 vụ (25,5%) .
Viện kiểm sát các địa phương tích cực xây dựng
các chuyên đề về kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, kiểm sát bản án, quyết định của Tòa
án; kịp thời thông báo rút kinh nghiệm đối với những vụ án của Tòa án cấp sơ
thẩm có vi phạm bị cấp phúc thẩm sửa, hủy. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa,
phiên họp đã nghiên cứu kỹ hồ sơ, thực hiện việc kiểm sát tuân theo pháp luật
tại phiên tòa và phát biểu quan điểm theo quy định của BLTTDS và hướng dẫn của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, bước đầu, khẳng định vai trò, trách nhiệm của
Viện kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân
sự.
Tuy nhiên, trong công tác kiểm sát, Viện kiểm
sát các cấp gặp khó khăn, nhất là thời điểm liên ngành chưa ban hành Thông tư
liên tịch số 04/2012/TTLT ngày 1/8/2012 giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Tòa án nhân dân tối cao; các văn bản hướng dẫn thực hiện BLTTDS sửa đổi, bổ
sung năm 2011, như Thông tư liên tịch, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao chưa ban hành kịp thời; nhiều Viện kiểm sát địa phương thiếu
biên chế cán bộ, Kiểm sát viên; kỹ năng, kinh nghiệm công tác kiểm sát của một
bộ phận cán bộ, Kiểm sát viên còn hạn chế. Mặt khác, Kiểm sát viên phải tập
trung nghiên cứu hồ sơ tham gia phiên tòa, phiên họp nên chưa chú trọng đúng
mức trong việc kiểm sát các bản án, quyết định giải quyết các vụ việc dân sự;
công tác phối hợp trong kiểm sát bản án, quyết định chưa chặt chẽ; nên việc
phát hiện vi phạm và ban hành kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm của nhiều
Viện kiểm sát chưa đạt chỉ tiêu quy định.
2. Một số vướng mắc và kiến nghị trong
thực hiện BLTTDS (sửa đổi)
2.1. Về kiểm sát việc Tòa án trả lại đơn khởi
kiện cho đương sự theo quy định tại Điều 169, Điều 170 BLTTDS quy định: trong
thời hạn 03 ngày làm việc (ba ngày), kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn
khởi kiện của Tòa án, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh án
Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện. Viện kiểm sát địa phương cho rằng thực tế
Tòa án chỉ gửi cho Viện kiểm sát thông báo trả lại đơn khởi kiện với nội dung
ngắn gọn, chung chung. Muốn xác định việc trả lại đơn khởi kiện có đúng pháp
luật hay không, Viện kiểm sát có thể phải mời đương sự lên để lấy lời khai,
kiểm tra chứng cứ, tài liệu; vì vậy, thời hạn 03 ngày để có kiện nghị là không
thể thực hiện được.
2.2. Điều 165 BLTTDS quy định: Người khởi kiện
phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu
cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Quy định như trên có một số trường hợp
không thực hiện được. Ví dụ, ông A khởi kiện ông B về yêu cầu chia thừ kế nhà
ở; theo đó, kèm theo đơn khởi kiện, ông A phải có bản sao giấy chứng nhận quyền
sở hữu căn nhà đang tranh chấp. Nhưng ông B lại đang quản lý bản chính các giấy
tờ về sở hữu căn nhà nên ông A không thể cung cấp cho Tòa án được. Đề nghị Viện
kiểm sát tối cao hướng dẫn cụ thể vấn đề này.
2.3. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án thuộc
trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa sơ thẩm, theo Điều 21 BLTTDS,
nhưng không thông báo để Viện kiểm sát cử Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Những trường hợp này, sau khi xét xử, Viện kiểm sát mới phát hiện được Tòa án
vi phạm pháp luật tố tụng, nhưng về đường lối (nội dung) Tòa án giải quyết đúng
pháp luật, Viện kiểm sát có nên kháng nghị hủy bản án sơ thẩm ?.
Một số trường hợp Tòa án lấy lời khai của đương
sự, nhân chứng…Nhưng cho rằng đương sự, nhân chứng do không biết chữ (chủ yếu
là các vụ án ly hôn) nên Thư ký phải ghi hộ lời khai; đây không phải là hoạt
động thu thập chứng cứ, vì vậy không thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham gia
phiên tòa sơ thẩm theo Điêu 21 BLTTDS. Cần có sự nhận thức thống nhất về việc
thu thập chứng cứ của Tòa án.
2.4. Qua thực tiến xét xử một số vụ án xin lý
hôn, có tranh chấp quyền sử dụng đất. Trường hợp này, Viện kiểm sát có tham gia
phiên tòa sơ thẩm theo Điều 21 BLTTDS ?.
2.5. Theo quy định tại Điều 195 BLTTDS thì trong
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có tên Kiểm sát viên (kể cả Kiểm sát viên
dự khuyết, nếu có) tham gia phiên tòa; khoản 1 Điều 3 Thông tư liên tịch số 04/
TTLT: Trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa, phiên họp thì trong
thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của Tòa án sơ thẩm,
phúc thẩm thông báo thụ lý vụ việc dân sự theo Điều 174, 257, 331 BLTTDS, Viện
kiểm sát phải gửi cho Tòa án văn bản phân công Kiểm sát viên…Quy định như trên
là không khả thi, khó thực hiện. Bởi lẽ, chỉ trên cơ sở văn bản thông báo thụ
lý của Tòa án thì Viện kiểm sát chưa thể xác định được vụ án nào Viện kiểm sát
phải tham gia phiên tòa theo quy định của Điều 21 BLTTDS.
2.6. Khi áp dụng các quy định mới ngoài các trường
hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa (Điều 85 BLTTDS), thực tiễn có nhiều trường
hợp phát sinh chưa được hướng dẫn cụ thể, như: Trường hợp nào là tranh chấp đất
đai bắt buộc phải qua hòa giải ở cơ sơ; trường hợp Tòa án xác minh địa chỉ của
đương sự, tình trạng hôn nhân, các trương hợp này Tòa án, Viện kiểm sát đều
lúng túng về tham gia phiên tòa của Viện kiểm sát.
2.7. Trường hợp Luật sư tham gia và được Tòa án
chấp nhận là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; Luật sư có
quyền nghiên cứu hồ sơ, sao chụp tài liệu…Nhưng hồ sơ đã chuyển cho Viện kiểm
sát nghiên cứu để tham gia phiên tòa và Luật sư yêu cầu được nghiên cứu hồ sơ.
Trường hợp này, Viện kiểm sát giải quyết theo quy định nào ?.
2.8. Tại Điều 94 BLTTDS quy định các cá nhân, cơ
quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ,
kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát trong thời hạn 15
ngày; trường hợp không cung cấp đầy đủ, kịp thời…thì tùy theo mức độ vi phạm có
thể bị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong thực tế, nếu cơ quan, đơn vị
không cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ thì Tòa án không thể đưa vụ án ra giải
quyết và phải tạm đình chỉ với lý do chờ kết quả phúc đáp của cơ quan, tổ chức.
Vạy, trường hợp này có xử lý được cơ quan, tổ chức hay không ? Nếu xử lý theo
theo quy định pháp luật nào ?.
2.9. Theo quy
định của BLTTDS, tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên chỉ được phát biểu về tố tụng,
vậy, Kiểm sát viên có quyền hỏi để làm rõ nội dung của vụ kiện không ?; những
vụ án có vi phạm tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm mà Viện kiểm sát không tham gia
phiên tòa hoặc có tham gia nhưng không phát hiện được vi phạm thì Kiểm sát viên
tại phiên tòa phúc thẩm có được phát biểu ý kiến về những vi phạm đó hay không
?.
2.10. Điều
269 BLTTDS quy định: Trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên
tòa phúc thẩm và bị đơn đồng ý nhưng vụ án lại bị Viện kiểm sát kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm; Trường hợp này, kháng nghị của Viện kiểm sát được giải quyết
thế nào ?.
2.11. Điều
256 BLTTDS quy định trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm
thì Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng
nghị nhưng không được vượt quá phạm vi kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng
nghị đã hết. Thực tế ở địa phương chưa có trường hợp nào khi vụ án được đưa ra
xét xử phúc thẩm trong thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát. Do đó, nhiều
trường hợp tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, qua nghiên cứu hồ sơ Viện kiểm sát
cấp phúc thẩm mới phát hiện Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng mà Viện
kiểm sát cấp huyện không phát hiện được để kháng nghị, nhưng Viện kiểm sát cấp
tỉnh lại không được bổ sung, thay đổi kháng nghị.
2.12. Quá
trình tham gia phiên tòa, khi thấy vụ kiện có nhiều tình tiết phát sinh chưa rõ
quan điểm giải quyết cho nên đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử cho
hoãn phiên tòa để điều tra bổ sung. Vấn đề này chưa có điều luật nào quy định.
2.13. Điều
288 BLTTDS quy định về trường hợp đơn đề nghị giám đốc thẩm được kéo dài thời
hạn xem xét kháng nghị (…). Tuy nhiên để xác định thế nào là bản án có “sai
lầm nghiêm trọng” chưa có hướng dẫn cụ thể, vẫn còn phụ thuộc bởi ý
chí chủ quan của cá nhân Thẩm phán; mặt khác cần hướng dẫn quy định đương sự có
đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 284 BLTTDS và sau khi hết thời hạn
kháng nghị quy định tại khoản 1 điều này đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị.
Nếu đơn đề nghị đã được giải quyết của người có thẩm quyền kháng nghị, thì vẫn
phải giải quyết tiếp sẽ mất thời gian và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự khác.
2.14. Đối với
trường hợp Viện kiêm sát có công văn yêu cầu ạm hoãn thi hành án để xem xét kháng
nghị giám đốc thẩm nhưng sau đó không kháng nghị thì có phát hành công văn
thông báo cho cơ quan thi hành án dan sự biết không ?/
2.15. Điều 3 Chỉ
thị số 04 ngày 17/5/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng
cường công tác kháng nghị phúc thẩm dân sự, hành chính, quy định phiếu kiểm sát
phải có chữ ký của Kiểm sát viên và lãnh đạo Viện kiểm sát cấp sơ thẩm, sau đó
chuyển bản án, quyết định kèm theo phiếu kiểm sát cho Viện kiểm sát cấp trên.
Tại đây, sau khi nghiên cứu, Kiểm sát viên, lãnh đạo Viện phải ký tiếp vào
phiếu kiểm sát. Đối với Viện kiểm sát số lượng thụ lý nhiều (như Viện kiểm sát
TP Hồ Chí Minh) thì việc Kiểm sát viên, lãnh đạo Viện ký đầy đủ phiếu kiểm sát
là khó thực hiện được.
2.16. Hiện
nay còn áp dụng Kết luận 2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhan dân tối cao;
Hướng dẫn số 15 về lập hồ sơ kiểm sát vụ việc dân sự ?
2.17. Cơ quan
có thẩm quyền cần khẩn trương ban hành văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện Điều
32a BLTTDS.
2.18. BLTTDS
và Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao quy định về việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp khẩn
cấp tạm thời (BPKCTT) không cụ thể, chưa sát với thực tiễn giải quyết các vụ án
dân sự nên Tòa án có sự nhận thức và áp dụng không thống nhất; việc quy định
Viện kiểm sát chỉ có quyền kiến nghị và thời hạn kiến nghị việc áp dụng, thay
đổi hoặc hủy bỏ BPKCTT là quá ngắn (03 ngày) nên một số trường hợp không bảo vệ
được quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
2.19. Theo
quy định tại điểm b tiểu mục 4.2, mục 4 phần III Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP
ngày 4/8/2006 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao: Trong thời hạn nguyên đơn có
quyền kháng cáo mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện và bị đơn có văn bản đồng ý,
các đương sự khác không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nhưng Tòa án
cấp sơ thẩm vẫn phải chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm để mở phiên tòa. Quy
định này không phù hợp với quy định tại Điều 242 BLTTDS về tính chất của xét xử
phúc thẩm; như vậy, có thể có Tòa án cấp phúc thẩm vẫn phải mở phiên tòa để xét
xử. Cần có hướng dẫn về quy định trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trong
thời hạn kháng cáo.
2.20. Về khoản
1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 04 quy định “Tòa án chuyển hồ sơ vụ việc dân
sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên
họp…trừ trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc
thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đã kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm”. Quy định như trên là không phù hợp trong trường
hợp Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm chỉ trên cơ sở bản
án, quyết định của Tòa án cấp dưới (không cần hồ sơ vụ án). Khi có kháng nghị,
Tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm để xét xử; vì
vậy, Tòa án cấp sơ thẩm sẽ không chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát đã kháng nghị
để nghiên cứu tham gia phiên tòa.
Quy định tại khoản
3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 04 đã hạn chế quyền yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ
để xem xét kháng nghị của Viện kiểm sát, nhất là trường hợp Viện kiểm sát cùng
cấp với Tòa án đã ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện
có vi phạm cần báo cáo Viện kiểm sát cấp có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm.
2.21. Điều 35
BLTTDS quy định về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ: “Tòa án án nơi bị đơn cư
trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là
cơ quan, tổ chức…”; nhiều trường hợp bị đơn lợi dụng quy định này đã thay đổi
nơi cư trú nhằm kéo dìa thời gian giải quyết vụ án.
Cần có hướng dẫn
phù hợp để tránh tình trạng kéo dài của bên phải thực hiện ngĩa vụ dân sự.
2.22. Vấn đề định
giá tài sản trong các vụ tranh chấp tài sản. Hiện nay, theo quy định của pháp
luật, cho pháp sử dụng kết quả định giá của công ty định giá tư nhân; các công
ty này định giá thường không chính xác. Vì vậy việc Tòa án giải quyết tranh
chấp tài sản trên cơ sở định giá của các công ty tư nhân không bảo đảm chính
xác, khách quan.
2.23. BLTTDS không
quy định thời hạn Tòa án sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định, có một số vụ,
việc Viện kiểm sát phát hiện vi phạm và quyết định kháng nghị. Sau đó, Tòa án
ra thông báo sửa chữa, bổ sung, đính chính bản án về các vấn đề mà Viện kiểm sát
đã kháng nghị nên trường hợp này, kháng nghị của Viện kiểm sát không được chấp
nhận.
2.24. Trong thực
tế nhiều quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án không có căn cứ
theo quy định tại Điều 189 BLTTDS, do xác định việc tạm đình chỉ vi phạm pháp
luật, Viện kiểm sát đã kháng nghị phúc thẩm. Nhưng sau đó, Tòa án lại đưa vụ án
ra xét xử. Trường hợp này Viện kiểm sát phải xử lý như thế nào cho phù hợp ?.
Trên đây là tổng hợp một số vướng mắc về nhận
thức và áp dụng một số quy định của BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011, Thông tư
liên tịch số 04 và một số văn bản hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong số những vướng mắc mà Viện kiểm sát các địa phương đã nêu, có một số
vướng mắc đã được Thông tư liên tịch số 04 giải quyết, có vướng mắc thuộc về
công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành thì Quy chế nghiệp công tác kiểm sát giải
quyết các vụ việc dân sự (ban hành kèm theo Quyết định số 567/QĐ-VKSTC ngày
8/10/2012) giải đáp phần nào những vướng mắc của Viện kiểm sát các cấp. Những
nội dung liên quan đến trách nhiệm hướng dẫn của liên ngành Tòa án nhân dân tối
cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thì hiện nay đang trong quá trình xây
dựng, như hướng dẫn thực hiện Điều 32a, Điều 33, Điều 35, Điều 85 Điều 168,
Điều 189…của BLTTDS. Vụ 5 sẽ phối hợp với các đơn vị có liên quan tiếp tục tổng
hợp vướng mắc để tham mưu cho lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo
cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn thực hiện các quy định BLTTDS; sửa đổi quy định
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về lập hờ sơ kiểm sát; phối hợp với các Viện
phúc thẩm 1,2,3 tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 04 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm về
dân sự, hành chính.
Trên đây là thông báo của Vụ 5 về một số tình
hình thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự và những
vướng mắc trong thực hiện BLTTDS của Viện kiểm sát các cấp trong thời gian qua.
TL.
VIỆN TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG Trần Đình Khánh |