Thông tư 10/2002/TT-BCA(A11) hướng dẫn Nghị định 73/2001/NĐ-Cp về hoạt động và tổ chức lực lượng bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp
BỘ CÔNG AN
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
Số: 10/2002/TT-BCA(A11)
|
Hà Nội, ngày 26 tháng 8 năm 2002
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ CÔNG AN SỐ 10/2002/TT-BCA(A11) NGÀY 26 THÁNG 8
NĂM 2002 VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH SỐ 73/2001/NĐ-CP CỦA CHÍNH PHỦ
VỀ HOẠT ĐỘNG VÀ TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG BẢO VỆ CƠ QUAN, DOANH NGHIỆP
Ngày 5
tháng 10 năm 2001 Chính phủ ban hành Nghị định số 73/2001/NĐ-CP về hoạt động và
tổ chức lực lượng bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp, Bộ Công an hướng dẫn thực hiện
như sau:
1. Tổ
chức lực lượng bảo vệ:
1.1. Tổ
chức lực lượng bảo vệ tại các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước nằm trong hệ thống
tổ chức của các cơ quan, doanh nghiệp. Tuỳ theo yêu cầu cụ thể để thành lập
Phòng, Ban, đội, tổ bảo vệ trực thuộc văn phòng hoặc phòng hành chính tổng hợp.
Tại các Bộ, Ngành chủ quản cần có bộ phận kiểm nhiệm thuộc khối văn phòng để
theo dõi, chỉ đạo hoạt động bảo vệ trong phạm vi thuộc Bộ, ngành mình phụ trách.
1.2. Tổ
chức lực lượng bảo vệ tại các đơn vị kinh tế thành lập theo Luật doanh nghiệp,
Luật Hợp tác xã và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam do Hội đồng quản trị
hoặc người đứng đầu cơ quan, doanh nghiệp tuỳ theo yêu cầu có thể để quyết định
cho phù hợp.
2.
Quyền lợi, chế độ, chính sách của lực lượng bảo vệ:
Ngoài
chế độ chính sách đối với cán bộ, nhân viên bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp nêu
tại Điều 9 và Điều 12 Nghị định số 73/2001/NĐ-CP thì:
2.1.
Người làm công tác bảo vệ tại cơ quan doanh nghiệp Nhà nước trong khi làm nhiệm
vụ, dũng cảm đấu tranh với bọn tội phạm bị thương, hy sinh được áp dụng tiêu
chuẩn xác nhận là thương binh, liệt sĩ và được hưởng chính sách như thương
binh, liệt sĩ quy định tại Điều 1, Điều 2, Điều 3 Quyết định số 301/CP ngày
20/9/1980 của Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ), Điều 3 Mục I Thông tư số
03/TBXH ngày 17/01/1981 và Điều 3 mục II Công văn số 16/TBXH ngày 14/03/1981
của Bộ Thương binh xã hội (nay là Bộ Lao động thương binh và xã hội).
Thủ tục
hồ sơ đề nghị xét, ngoài những thủ tục hồ sơ theo quy định hiện hành cần phải
có những giấy tờ sau:
+ Biên
bản xảy ra sự việc (khám nghiệm hiện trường)
+ Biên
bản xét xử ý kiến kết luận của cơ quan điều tra, toà án về mức độ tội phạm của
người phạm tội.
+ Nhận
xét của Thủ trưởng cơ quan, doanh nghiệp đối với người bị thương, hy sinh về ý
thức chính trị, tinh thần trách nhiệm trong công tác.
Các cơ
quan, doanh nghiệp nhà nước kịp thời làm đầy đủ thủ tục, hồ sơ chuyển đến cơ
quan lao động, thương binh và xã hội để sớm có quyết định đảm bảo chế độ, quyền
lợi cho người bị thương và gia đình liệt sỹ.
2.2
Người làm công tác bảo vệ dưới dạng hợp đồng tuần tra, canh gác tại cơ quan,
doanh nghiệp nhà nước và làm công tác bảo vệ tại các tổ chức, đơn vị kinh tế
thành lập theo Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã và Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam được hưởng các quyền lợi theo thoả thuận với người đứng đầu các cơ
quan, doanh nghiệp và các tổ chức, đơn vị kinh tế thông qua hợp đồng lao động;
được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định hiện hành của pháp luật.
3.
Công tác huấn luyện nghiệp vụ cho lực lượng bảo vệ.
3.1.
Hàng năm các cơ quan, doanh nghiệp xây dựng kế hoạch huấn luyện nghiệp vụ cho
lực lượng bảo vệ và thông báo cho cơ quan công an chức năng biết để chủ động
phối hợp thực hiện.
3.2. Nội
dung huấn luyện lực lượng bảo vệ gồm:
+ Kiến
thức cơ bản về pháp luật
+ Các
biện pháp nghiệp vụ bảo vệ
+ Sử
dụng công cụ hỗ trợ được trang bị cho lực lượng bảo vệ và những động tác tự vệ,
bắt giữ tội phạm
3.3 Qui
định phân cấp huấn luyện và cấp giấy chứng nhận cho lực lượng bảo vệ
+ Lực
lượng bảo vệ tại các cơ quan, doanh nghiệp Trung ương do các cục chức năng
thuộc Tổng cục An ninh Bộ Công an tổ chức huấn luyện và cấp giấy chứng nhận
+ Lực
lượng bảo vệ tại các cơ quan, doanh nghiệp địa phương, các cơ quan, doanh
nghiệp Trung ương đã phân cấp cho công an địa phương quản lý, các tổ chức, đơn
vị kinh tế thành lập theo Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã và Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam do công an tỉnh, thành phố nơi cơ quan, doanh nghiệp
đóng tổ chức huấn luyện và cấp giấy chứng nhận.
3.4
Trách nhiệm phối hợp tổ chức huấn luyện lực lượng bảo vệ
+ Các
cục chức năng thuộc Tổng cục An ninh, Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương có trách nhiệm đảm bảo nội dung, tài liệu huấn luyện, bố trí giảng
viên và cấp giấy chứng nhận đã học nghiệp vụ cho lực lượng bảo vệ.
+ Các cơ
quan, doanh nghiệp có nhu cầu huấn luyện lực lượng bảo vệ chịu trách nhiệm kinh
phí huấn luyện, bố trí địa điểm, tổ chức và quản lý lớp học.
4.
Trang phục và trang bị cho lực lượng bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp
4.1. Lực
lượng bảo vệ được cơ quan, doanh nghiệp cấp kinh phí may trang phục và mua các
trang bị cần thiết khác phục vụ cho công tác bảo vệ gồm: quần áo (xuân hè, thu
đông), mũ kepi, giầy... theo qui định sau:
- Trang
phục xuân hè:
+ Áo
kiểu veston ngắn tay, cổ bẻ, cúc nhựa mầu đen (dùng cả cho áo thu đông). Thân
trước có túi mang ốp ngoài.
+ Quần
kiểu âu phục
+ Giấy
da màu đen ngắn cổ, buộc dây.
- Trang
phục thu đông:
+ Áo
ngoài kiểu veston dựng lót trong, dài tay, cổ bẻ. Thân trước có túi mang ốp
ngoài
+ Bên
trong là áo sơ mi màu xanh hoà bình dài tay cổ có chân
+ Cravát
màu tím than
+ Quần
may kiểu âu phục
+ Giầy
da màu đen ngắn cổ, buộc dây
Màu sắc,
chất liệu quần áo xuân hè, quần áo ngoài thu đông, mũ do thủ trưởng các cơ
quan, doanh nghiệp căn cứ tình hình cụ thể của cơ quan, doanh nghiệp mình để
quyết định cho phù hợp, nhưng không được trùng lẫn với màu sắc quần áo, mũ của
các lực lượng đã được Chính phủ qui định (Công an, Quân đội, Hải quan). Cơ
quan, doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo màu trang phục bảo vệ của cơ quan,
doanh nghiệp mình cho cơ quan công an chức năng và cán bộ, công nhân viên chức
trong cơ quan, doanh nghiệp biết. Ngoài ra để đảm bảo điều kiện làm việc, nếu
cần thiết lực lượng bảo vệ được cơ quan, doanh nghiệp trang bị mũ bảo hiểm, áo
mưa, ủng, đèn pin, băng đỏ...
Định kỳ
cấp phát trang phục và trang bị khác cho lực lượng bảo vệ do thủ trưởng các cơ
quan, doanh nghiệp căn cứ hoạt động cụ thể của lực lượng bảo vệ tại đơn vị mình
để quyết định.
4.2.
Những cơ quan, doanh nghiệp nhà nước có nhu cầu cần thiết trang bị vũ khí quân
dụng và công cụ hỗ trợ cho công tác bảo vệ thực hiện theo qui định tại điểm g
mục I Điều 8 Chương II và điểm e mục I Điều 38 Chương V qui chế quản lý vũ khí,
vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ ban hành theo Nghị định số 47/CP ngày 12/08/1996
của Chính phủ.
4.3.
Giấy chứng nhận đã học nghiệp vụ bảo vệ, sao hiệu, cấp hiệu, phù hiệu, biển
hiệu của lực lượng bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp qui định như sau:
- Giấy
chứng nhận đã học nghiệp vụ bảo vệ:
Giấy
chứng nhận đã học nghiệp vụ bảo vệ được làm bằng giấy cứng khổ 11cm´8cm. Nền
màu vàng nhạt, đường viền và chữ Giấy chứng nhận màu đỏ, các chữ còn lại màu
đen.
Nguyễn Khánh Toàn
(Đã ký)
|
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
GIẤY CHỨNG NHẬN
Họ và
tên:..............................
Năm
sinh:..............................
Quê
quán:..............................
Đã học
nghiệp vụ bảo vệ cơ quan
doanh
nghiệp tổ chức tại.......
từ
ngày:......... đến ngày......
Đạt
loại..............
Số:..... Ngày.... tháng... năm...
(cơ quan cấp giấy ký tên, đóng dấu) |
Ảnh 3 x 4
|
-
Sao hiệu bảo vệ: bằng kim loại hình tròn, đường kính 36mm ở giữa có ngôi sao 5
cánh màu vàng nổi trên nền đỏ, liền với nền đỏ là nền xanh thẫm có hai bông lúa
nổi màu vàng bao quanh. Phía dưới ngôi sao có nửa hình bánh xe màu vàng giữa
nửa bánh xe có chữ "Bảo vệ". Vành ngoài sao hiệu bảo vệ màu vàng. Sao
hiệu bảo vệ khi gắn trên mũ kepi có cành tùng kép bằng kim loại màu trắng bao
quanh liền thành một khối cao 54mm, rộng 64mm:
+ Đối
với lực lượng bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp nhà nước phía cuối nền cấp hiệu có
vạch ngang, cấp hiệu phụ trách bảo vệ có ba vạch ngang bằng sợi nỉ màu vàng
rộng 10mm, vạch nọ cách vạch kia 7mm, cấp hiệu nhân viên bảo vệ có thời gian
làm việc từ 5 năm trở lên có hai vạch ngang bằng sợi nỉ màu vàng rộng 10mm,
vạch nọ cách vạch kia 7mm. Cấp hiệu nhân viên bảo vệ có thời gian làm việc dưới
5 năm có một vạch ngang bằng sợi nỉ màu vàng rộng 10mm.
Biển
hiệu bảo vệ được làm bằng giấy cứng, khổ 9cm x 5,5cm nền màu vàng nhạt, đường
viền, gạch ngang và chữ Bảo Vệ màu đỏ, các chữ khác màu đen.
- Phần
trên vạch ngang trong biển hiệu ghi tên cơ quan chủ quản bằng chữ in có chân,
dòng bên dưới ghi tên công ty, doanh nghiệp bằng chữ thường đậm.
- Phần
dưới gạch ngang trong biển hiệu về phía bên phải là chữ Bảo Vệ bằng chữ in có
chân, dòng bên dưới ghi họ tên người được cấp biển hiệu bằng chữ in có chân
(nhỏ hơn chữ bảo vệ), dòng cuối cùng là "Số hiệu:" ghi số của người
được cấp biển hiệu. Phía trái dán ảnh (3x4) của người được cấp biển hiệu có
đóng dấu giáp lai của cơ quan, doanh nghiệp.
Biển
hiệu bảo vệ được nẹp trong bao Platis màu trong suốt có ghim phía sau để đeo
phía trên túi áo ngực trái.
Ví dụ:
Biển hiệu bảo vệ của Công ty Cơ khí Thanh Xuân - COMA 12 - Bộ Xây dựng:
BỘ XÂY DỰNG TỔNG CÔNG TY CƠ KHÍ XÂY DỰNG
Công ty cơ khí Thanh Xuân - COMA 12
BẢO
VỆ
NGUYỄN
VĂN A
SỐ
HIỆU 0126
|
Ảnh 3 x 4
|
4.4.
Cán bộ, nhân viên bảo vệ tại các cơ quan, doanh nghiệp nếu vì lý do gì thôi
không làm công tác bảo vệ nữa thì cơ quan, doanh nghiệp có trách nhiệm thu hồi
sao hiệu, cấp hiệu, phù hiệu, biển hiệu bảo vệ của cán bộ nhân viên bảo vệ đó.
5. Tổ
chức thực hiện:
- Tổng
cục An ninh có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thi hành Nghị định
số 73/2001/NĐ-CP tại các cơ quan, doanh nghiệp trung ương; Chủ trì, phối hợp
với các đơn vị liên quan biên soạn tài liệu huấn luyện nghiệp vụ bảo vệ, in
giấy chứng nhận đã học nghiệp vụ bảo vệ cho lực lượng bảo vệ.
-
Tổng cục Hậu cần Công an nhân dân chủ trì phối hợp với Tổng cục An ninh sản
xuất sao hiệu, cấp hiệu, phù hiệu cho lực lượng bảo vệ theo đề nghị của cơ
quan, doanh nghiệp ở Trung ương và địa phương.
-
Giám đốc Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm hướng
dẫn, kiểm tra đôn đốc thực hiện Nghị định số 73/2001/NĐ-CP tại các cơ quan,
doanh nghiệp thuộc địa phương mình quản lý.
-
Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký. Các quy định trước đây của
Bộ Công an về tổ chức và hoạt động của lực lượng bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp
trái với Thông tư này đều bãi bỏ. Trong quá trình thực hiện có điều gì vướng
mắc các đơn vị, địa phương phản ánh về Bộ Công an để nghiên cứu giải quyết.